Vì sao có thể nói “Số Đỏ” là cuốn tiểu thuyết hoặc kê vô tiền khoáng hậu trong văn học Việt Nam?

 

  1. “vô tiền khoáng hậu” là gì?

Vô tiền khoáng hậu là một câu thành ngữ ý muốn nói là điều chưa từng xảy ra trong quá khứ và cũng rất khó xảy ra trong tương lai

Trong “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng điều đầu tiên ta phải nói đến để nhà văn Nguyễn Khải đánh giá “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng là “ Vô tiền khoáng hậu” là nội dung. Nội dung của tác phẩm nổi bật hơn tất cả so với các tác giả cùng thời khác “Số đỏ” là hiện tượng văn học trào phúng vô tiền khoáng hậu, bởi cái hài hước, tiếng cười “không ai bắt chước được, không ai theo kịp được” (Vũ Bằng).

Zinoman (nhà sử học) cũng như công chúng Hoa Kỳ thích Số đỏ bởi đó là một bức tranh sinh động của xã hội Việt Nam thời thực dân Pháp “khai hóa”. Zinoman cũng đã từng ví Vũ Trọng Phụng với nhà văn lớn nước Anh George Orwell (1903 – 1950, tác giả tiểu thuyết châm biếm Trại súc vật). Orwell phản ánh xã hội Anh – trung tâm châu Âu thời đó; còn Vũ Trọng Phụng phản ánh xã hội thuộc địa của những nước trong vòng đô hộ của thực dân Pháp đang được “khai hóa” theo kiểu thực dân. Với Số đỏ, chỉ xoay quanh nhân vật chính là Xuân tóc đỏ, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng hàng loạt nhân vật hoạt kê khác làm náo động văn đàn, tạo ra cả thế giới hài hước, xã hội hài hước, làm cho người đọc như sờ, như thấy được một xã hội thuộc địa nhố nhăng, bệnh hoạn.

 

 

Vũ Trọng Phụng, dù vô tình hay cố ý đã là một người chép sử trung thành của thời kỳ ấy. Ngòi bút châm biếm tài năng của Vũ Trọng Phụng, làm cho Số đỏ lấp lánh đến ngày hôm nay.

 

Thực ra không phải đến bây giờ người ta mới đánh giá cao Vũ Trọng Phụng, đánh giá cao Số đỏ. Với 27 năm ngắn ngủi trên cõi trần gian này, Vũ Trọng Phụng đã kịp để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, đặc biệt vào năm 1936 (24 tuổi) Vũ Trọng Phụng tung ra 4 tác phẩm lẫy lừng: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Cơm thầy cơm cô. Hiện tượng Vũ Trọng Phụng “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử văn học Việt Nam là vậy.

Với các nhà phê bình Việt Nam, Vũ Trọng Phụng đã từng được Phùng Tất Đắc, Trương Chính, Trương Tửu... đánh giá rất cao. Đặc biệt có một người nghiên cứu Vũ Trọng Phụng bằng cả con tim là nhà nghiên cứu Văn Tâm: “Vũ Trọng Phụng là một tài năng văn học kiệt xuất”. Rất tiếc vì diễn biến của thời cuộc, những nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng chưa thấu đáo, như Zinoman từng nhận định: “Hình như ở VN chưa có nhà phê bình nào nói được thật hết, đúng hết về giá trị thật sự các sáng tác của Vũ Trọng Phụng”.

Vậy là Vũ Trọng Phụng vẫn còn bí ẩn? Đúng thế. Những điều bí ẩn đó cũng chính là sức hấp dẫn của ông, không chỉ hấp dẫn chúng ta – những người VN của thế kỷ 21, mà cả những người nước ngoài, như người Mỹ mà Số đỏ đã chinh phục. Không chỉ có Số đỏ, những Giông tố, Vỡ đê, Lấy nhau vì tình, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Dứt tình... vẫn còn lấp lánh, những câu chuyện của đầu thế kỷ trước mà như ông mới viết hôm qua, hôm kia ở đầu thế kỷ XXI, với một bút pháp của người cõi trên.

 

Thứ hai, là trên phương diện nghệ thuật ngôn từ.

Vũ Trọng Phụng sử dụng lớp ngôn ngữ đa dạng và phong phú trong tiểu thuyết này. Từ ngôn ngữ vỉa hè, thành thị, ngôn ngữ lãng mạn đến ngoại lai…đều đủ cả, nhằm góp phần diễn đạt cái xã hội mà mọi thứ đều tạp nham, xiêu vẹo. Trước hết là ngôn ngữ vỉa hè, bắt nguồn từ Xuân tóc đỏ - một đứa lang thang mồ côi, vô học. Từ lúc còn là một tên ma cà bông cho đến khi trở thành vĩ nhân thì cái ngôn ngữ vô giáo dục kia luôn gắn bó với hắn. Cứ hở mồm ra là “Mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”.

 

Ngôn ngữ lãng mạn được thể hiện tập trung ở nhân vật Tuyết – cô gái lãng mạn của những năm 30. Từ cái tên đến bộ áo ngây thơ, cử chỉ, điệu bộ, lời nói…Nói chung, ngôn ngữ của Tuyết gắn liền với sự lãng mạn: “Tôi là một trang bán xử nữ, nghĩa là còn trinh một nửa”; có khi là những lời thơ mộng pha chút giễu cợt “Lúc ấy cô muốn viết ngay một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời mình”; hay “em sung sướng quá! Em muốn chết anh ạ…” Cách gọi tên các trang phục: Chinh phục, Lưỡng lự, Chờ Một Phút, Ỡm ờ, Ngừng tay...

 

Ngôn ngữ của của Phật phát ra từ sư Tăng Phú: “bần tăng mà kiện tại tòa thì phải thua hộc máu mồm” hay “tín đồ nhà Phật chúng tôi bút chiến nguyền rủa nhau là ghẻ ruồi, ghẻ trâu, ghẻ lào, hắc lào, hóa củi, cụt tay, cụt chân, thế cơ”.

 

Còn có ngôn ngữ phô trương, hô hào như khẩu hiệu: muôn năm, Âu hóa, nước Pháp dân chủ vạn tuế, thánh cung bình dân vạn tuế…Vũ Trọng Phụng đã bỡn cợt cái xã hội thối nát đó bằng thứ ngôn ngữ này nhằm làm cho cái uy nghi lẫm liệt của phong trào Âu hóa sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại những điều đáng lên án nhất.

 

Vũ Trọng Phụng phản ánh tinh thần đô thị, phản ánh trào lưu Âu hóa đang vội vã diễn ra chẳng có trật tự gì bằng hệ thống các liên từ, trạng từ, phó từ như: chợt, bỗng, tự nhiên, tình cờ, đột ngột một cách linh hoạt, tài tình trong các ngữ cảnh khác nhau để miêu tả cát tinh thần đô thị hiện tại ấy. Ví dụ như “Xuân chợt thấy bóng bà Văn Minh”, “Tuyết chợt nhìn ra xa”, “Xuân tóc đỏ bỗng thấy ông thầy xem số”…Những từ này diễn tả sự bất ngờ của những biến cố liên tiếp xảy ra.

 

Ngôn ngữ pha tạp nhiều từ tiếng Pháp: cách nói lái hay phiên âm tiếng Pháp sang tiếng Việt: Xanh ca: năm đều, Xanh xít: năm – sáu. Ơ voa: Au revoir – tạm biệt. Vào ken cờ ban: Quelquesballe – đánh một vài quả. Tiếng văng tục của viên cảnh sát: sapristi. Tên hai viên cảnh sát Min đơ, Min toa...Gọi đồ vật theo cách Âu hóa: ma nơ canh., cooc xê, tennit.. Cách dùng từ pha tạp: gu thời trang. Tiếng hát Dè..đờ..dà...múa..! Mông đế y ề Pa rí! Tôi có hai mối tình tổ quốc và Pa – ri...Lốp, sì mát, đờ ray, kèn bú dích... Qua việc pha tạp tiếng Pháp vào các diễn ngôn của các nhân vật, nhà văn cho thấy sự lai căng, nhố nhăng, Âu hóa lố bịch của nhữn kẻ mang danh là thượng lưu nhưng thực chất là những quái thai của xã hội nửa Tây nửa ta buổi đầu.

Ngôn ngữ vỉa hè của đám hạ lưu đầu đường xó chợ: Xuân Tóc Đỏ cứ sấn sổ đưa tay ra toan cướp ái tình...Cứ ỡm ờ mãi. Xin một tị! Một tị tỉ tì ti thôi

- Khỉ lắm nữa

- Hàng đã ế bỏ mẹ ra thế này này...Tình bỏ mẹ ra đấy...

Ngôn ngữ trào phúng còn thể hiện ở sự đa giọng điệu trong tác phẩm. Xét về cảm hứng chủ đạo thì có giọng bi, giọng hài, giọng bi đan xen hài, giọng anh hùng ca. Xét trên khuynh hướng tình cảm thì có giọng điệu phê phán, châm biếm, ngợi ca. Giọng chủ đạo trong “Số đỏ” là giọng châm biếm, mỉa mai hay còn gọi là giọng giễu nhại. Giáo sư Đỗ Đức Hiểu khẳng định: “Số đỏ là một cái cười nhại với tầm cỡ lớn”. Vũ Trọng Phụng nhại lại một xã hội, một phong trào văn hóa…trong “Số đỏ”.

 

Tri giác đô thị của Số Đỏ cũng toát lên qua lời văn tường thuật sôi động và ngôn ngữ hỗn tạp, tiêu biểu cho nhịp độ và cảm giác của đời sống thành thị. Sự leo thang xã hội phi thực tế của Xuân tóc đỏ trong tiểu thuyết – từ thằng nhặt ban quần đến người bán hàng, bác sĩ, nhà cải cách xã hội, quán quân tennis, chính trị gia và cuối cùng là anh hùng dân tộc – xảy ra trong vẻn vẹn có năm tháng. Theo nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu, Số Đỏ diễn đạt trung thành tinh thần đô thị . Ở đây, chính là những sự kiện chớp nhoáng hấp tấp, vội vã “qua” dàn nhạc phức hợp nhiều bè trong đối thoại, qua nhịp điệu mỗi cú đoạn đi về một hướng trong cấu trúc, và qua việc sử dụng nhiều lần những từ và cụm từ chuyển đổi tâm trạng như chợt, bỗng, tình cờ, vừa lúc ấy và đột ngột. Đỗ Đức Hiểu đã kết luận rằng Vũ Trọng Phụng là nhà văn đô thị nhất của Việt Nam và Số Đỏ là tiểu thuyết đô thị một trăm phần trăm.

 

Ngôn ngữ hỗn tạp và thế giới hỗn độn nửa Tây nửa Ta buổi đầu thực dân mang đến cho Số đỏ nét riêng trong việc phản ánh hiện thực. Đặc điểm này khiến tác phẩm tiệm cận rất gần với khuynh hướng của tiểu thuyết hậu hiện đại. Chất giễu nhại và hỗn tạp đem đến cái nhìn cuộc sống sâu sắc, đa chiều, hóm hỉnh. Số đỏ đã đi một dòng riêng trong dòng chảy của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.

 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét