Nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản Thơ ông đã đi qua những thời kỳ, những giai đoạn lớn của cách mạng. Ông đã có những đóng góp rất quan trọng và luôn là ngọn cờ đầu ở mỗi chặng đường thơ. Thơ Tố Hữu đã truyền được cho mọi người sức mạnh và niềm tin, đó là sức mạnh của cách mạng và niềm tin vào tương lai. Từ một tiếng nói thơ ca cất lên trong tuổi trẻ khát khao lý tưởng và hãng say trong đấu tranh cách mạng Tổ Hữu đã lần lượt sáng tạo được những đỉnh cao mới trong thơ.
Sự nghiệp thơ Tố Hữu
Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Năm tập thơ của ông phản ánh những chặng đường của lịch sử dân tộc. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay ghi lại quá trình giác ngộ và trưởng thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Tiếp theo, tập “Việt Bắc’’ được ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tập thơ là một bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc. Tập “Gió Lộng’’ đánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu khi viết về hai nhiệm vụ của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ ở miền Nam. Và giọng thơ anh hùng ca càng được nhà thơ thể hiện rõ ở hai tập “Ra trận’’, “Máu và hoa’’. Cuối cùng, tập thơ “Một tiếng đờn’’ là những dòng tâm tư trăn trở của tác giả trong thời kỳ đất nước đã hòa bình.
Mỗi tập thơ của Tố Hữu, đều mang tính dân tộc đậm đà là một đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật thơ. Thơ Tố Hữu vừa mang tính chất trữ tình - chính trị sâu sắc, vừa mang tính dân tộc đậm đà. “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu
Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” được biểu hiện trước hết ở phương diện nội dung - qua cách nhìn, cách cảm, cách miêu tả của nhà thơ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Suốt dọc bài thơ, ta bắt gặp rất nhiều địa danh cụ thể, xác thực gắn với tên đất, tên làng, tên các vùng miền của đất nước ta: Tân Trào, Hồng Thái, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê, Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, đến Cao - Lạng, Nhị Hà; Từ Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên đến Đồng Tháp, An Khê, đèo De, núi Hồng…
Đó là những cái tên quen thuộc, gắn với thủ phủ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, những cái tênp của một vùng non nước không trộn lẫn với một vùng miền nào của một dân tộc nào khác, không trộn lẫn với một nhà thơ, một nền văn hóa nào khác. Tính dân tộc đậm đà thấm trong cả niềm tự hào của nhà thơ khi các địa danh xuất hiện dày đặc, làm nên bản đồ trận địa trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
- Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa
- Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
- Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà
- Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Bên cạnh những địa danh, thiên nhiên, trong bài thơ cũng hiện rõ trong những nét đặc trưng, tiêu biểu cho một miền đất: “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”; “hắt hiu lau xám”, “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lung nương”; “bản khói cùng sương”; “rừng cây núi đá”; “Núi giăng thành lũy sắt dày”… Thiên nhiên in rõ dấu ấn thời tiết khắc nghiệt của vùng núi non xa xôi, hiểm trở, nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp hùng vĩ của đất nước.
Họa tính trong thơ Tố Hữu
Tất nhiên, thiên nhiên Việt Bắc cũng mang vẻ đẹp riêng. Đẹp nhất phải kể đến bộ tứ bình về cảnh sắc Việt Bắc trong sự luân chuyển bốn mùa:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lung
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Mỗi mùa mang một màu sắc đặc trưng. Cảnh rừng Việt Bắc vào đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Trên cái nền xanh trầm tĩnh của rừng già, mùa đông được báo hiệu bởi những đốm lửa lung linh của “hoa chuối đỏ tươi”. Nét chấm phá của màu đỏ hoa chuối trên nền xanh trầm tĩnh của núi rừng gợi màu tươi mới, gợi cái ấm áp, xua đi cái lạnh lẽo của mùa đông.
Theo vòng tuần hoàn của tạo hóa, đông qua, xuân đến. Mùa xuân Việt Bắc hiện diện với màu trắng tinh khiết của hoa mơ, “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng” là tính từ chỉ màu sắc, nhưng trong câu thơ này, nó được chuyển loại từ, thành bổ ngữ “nở trắng rừng”, gợi mở trước mắt người đọc một không gian bừng sáng, mênh mông, hoa mơ bao phủ khắp cánh rừng Việt Bắc.
Rồi hạ về, không chỉ bằng sắc vàng của rừng phách mà bằng cả khúc nhạc ve, “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Đây là một câu thơ tài hoa. Từ “đổ” trong câu thơ bật lên thật thần tình. Trong phản ứng dây chuyền, tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè, hè đến rừng phách chuyển màu vàng rực - từ “đổ” vừa diễn tả sự chuyển màu nhanh chóng, mau lẹ của rừng phách, vừa gợi những trận mưa hoa phách khi đón nhận gió hè.
Sự chuyển hóa âm thanh, màu sắc ở câu thơ tạo một không gian rực rỡ chỉ có ở cảnh rừng Việt Bắc và chỉ có thể được thâu tóm bằng một tài thơ đậm đà tính dân tộc như nhà thơ Tố Hữu. Hạ qua, thu sang mang theo nét thanh bình, trong trẻo: “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Trong cái màu xanh huyền ảo của trăng thu có cả cái thanh bình của núi rừng và cả cái bình yên của tâm hồn, của cuộc sống con người. Có thể nói, chất liệu dân tộc, cảm hứng dân tộc đã làm nên dấu ấn độc đáo của bộ tứ bình.
Dấu ấn trong thơ Tố Hữu
Dấu ấn dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” không chỉ được biểu hiện trong các địa danh, cảnh sắc thiên nhiên vùng miền mà đặc biệt in rõ trong hình ảnh con người mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Đó là những con người ân nghĩa, thủy chung:
- Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
- Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
- Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.
Trong cuộc chia tay bịn rịn của người đi - kẻ ở, giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc, kỉ niệm của những người từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi suốt “mười lăm năm ấy” cứ lần lượt được gợi nhắc trở thành lời khẳng định tấm lòng ân nghĩa, thủy chung của những con người cách mạng. Chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu khéo léo thể hiện bằng giọng điệu thiết tha, sâu lắng như lời tâm tình của tình yêu lứa đôi.
Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trong thơ Tố Hữu mang dáng vẻ quen thuộc của con người Việt Nam. Đó là những con người nhẫn nại, chịu thương, chịu khó, là “người đan nón chuốt từng sợi giang”, là “người mẹ nắng cháy lưng; Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đó là người đi rừng trong tư thế làm chủ đất trời, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, là những cuộc đời “gian nan” nhưng “vẫn ca vang núi đồi”, vẫn một niềm lạc quan, niềm tin bền bỉ vào ngày mai, vào tương lai tươi sáng.
Trong thơ Tố Hữu, hình ảnh đẹp hơn cả vẫn là con người cách mạng, con người kháng chiến - nằm trong mạch cảm hứng của văn học yêu nước của dân tộc Việt Nam. Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã dành những vần thơ hào sảng nhất để dựng nên hình tượng người lính trong bức tranh ra trận:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Tinh thần dân tộc, sức mạnh dân tộc được cất cánh trong những vần thơ hào hùng đã làm nên tính dân tộc đậm đà cho bài thơ “Việt Bắc”. Tinh thần ấy, sức mạnh ấy đã thành dòng chảy trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lịch sử tâm hồn con người Việt Nam và khi trước những thử thách lớn lao nó lại càng được khẳng định mạnh mẽ.
Để có được những bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống kháng chiến và con người kháng chiến chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc như vậy, không chỉ cần một tài năng nghệ thuật mà quan trong hơn, căn cốt hơn phải là một tâm hồn dân tộc, một tấm lòng gắn bó sâu sắc, thiết tha với Việt Bắc, với quê hương, xứ sở, phải có sự trải nghiệm cuộc sống trong lòng kháng chiến, có xúc cảm thời đại… tất cả đã hòa nhập, nối tiếp truyền thống ân nghĩa thủy chung trong đạo lí sống, trong tâm thức của dân tộc từ ngàn xưa. Có thể nói Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang mùi hương đất đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật… ( A. Leptonxtoi). Sức ngân vang của “Việt Bắc” vào lòng người đọc một phần là bởi sự hòa nhập đó.
Tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” không chỉ biểu hiện ở phương diện nội dung, mà còn được thể hiện rõ trên phương diện hình thức nghệ thuật. Hai yếu tố nội dung và nghệ thuật hòa quyện vào nhau làm nên tính dân tộc đậm đà. Sức hút của bài thơ với các thế hệ người đọc vượt thời gian không chỉ ở những tình cảm cách mạng lớn lao, cao cả, mà còn ở cả giọng điệu của tình thương mến ngọt ngào, tha thiết và đặc biệt là ở tính dân tộc đậm đà.
Kết Luận
Là một bài thơ trữ tình - chính trị, nhưng Tố Hữu đã tiếp thu mạch nguồn văn hóa dân gian, tiếp biến, sáng tạo làm nên vẻ đẹp độc đáo cho bài thơ Việt Bắc. Đậm đà tính dân tộc nhưng vẫn luôn mới mẻ đó là thành công của nhà thơ cách mạng Tố Hữu trong các sáng tác của mình. Như vậy, có thể nói, bất kể là tác phẩm văn học hay tác phẩm nghệ thuật nào cũng đều mang tính của dân tộc - phản ánh đời sống, lịch sử dân tộc, kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc.
0 Nhận xét