Phong cách thơ"triết lý - trí tuệ" trong Chế Lan Viên

 

Tác giả Chế Lan Viên

1 – Vài nét về tiểu sử và con người Tên thật là: Phan Ngọc Hoan Bút danh khác: Thạch Hãn, Chàng Văn.

Quê quán: Can an- Cam lộ- Quảng Trị. Thời trai trẻ chủ yếu sống ở Quy Nhơn – Bình Ðịnh. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.

Ông để lại cho nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ :

+ 15 tập thơ

+ 7 tác phẩm văn xuôi

+ 8 tập tiểu luận – phê bình

2. Chất trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên

Theo dõi toàn bộ sáng tác của Chế Lan Viên cùng với tìm hiểu nhận định của các nhà lý luận phê bình văn học, chúng ta thật dễ dàng đi đến nhận xét: Thơ Chế Lan Viên lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ, thể hiện khuynh hướng tu duy sắc sảo mang tính triết luận sâu sắc. Cậu bé Chế Lan Viên 17 tuổi xuất hiện trên thi đàn như một hiện tượng lạ lùng với tập thơ “ Điêu tàn”. Hoài Thanh nhận định: “ Cậu bé ấy đã khiến bao người ngạc nhiên. Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ XX, nó sừng sững như một tháp Chàm chắc chắn vừa lẻ loi vừa bí mật.” Cho đến tập thơ cuối “ Di cảo” Chế Lan Viên vẫn lặng lẽ gieo gặt những bài thơ lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ sắc sảo.

2.1. Thơ ông ít những chi tiết đời sống. Hiện thực trong thơ ông là hiện thực cảm thấy, nghĩ thấy

Có thể vì thế nên nhiều người cho rằng thơ ông ít những chi tiết đời sống. Nhận xét này có lý. Bởi vì Chế Lan Viên không bao giờ miêu tả chỉ để miêu tả, mặt khác, thơ ca không phải sinh ra là để làm công việc miêu tả. Nếu như hình ảnh cuộc sống có phần ít đi thì cần phải thấy cái giàu có, đa dạng không một nhà thơ nào sánh kịp, đó là cả một thế giới của những suy tưởng, của những tưởng tượng, của cái ảo giác, cả những cái siêu thực. Hiện thực trong thơ Chế Lan Viên không phải đơn giản là cái nhìn thấy, mà là cái cảm thấy, nghĩ thấy. Nó là bóng dáng của cái nhìn thấy. Đúng hơn nó là cái nhìn thấy được khái quát, nhào nặn qua tư duy, qua suy tưởng, qua tưởng tượng, có thể bị xáo trộn, bị gián đoạn, nó là cái vô nghĩa hợp lý... nghĩa là cái nhìn thấy đã qua giai đoạn nhận thức lý tính, nhận thức trừu tượng, không thể lấy kích tấc thường mà đo được,( Hoài Thanh ). Hiện thực ấy vì vậy cao hơn, bản chất hơn, giàu ý nghĩa hơn... cái hiện thực nhìn thấy

Có thể là trái đất mất anh hơn là anh mất nó Nó mất anh như mất một hạt bụi có nghĩa gì? Còn anh ngày mai khi đã là linh hồn, anh vẫn nhìn thấy nó Cha vẫn nhìn thấy con, thấy mẹ, thấy khu vườn Có điều ở thế giới ấy trong sáng, người ta không đau, không dùng nước mắt

Người ta trong như thuỷ tinh, chỉ còn tình thương.

(Từ thế chi ca)

Bài thơ nói về sự tịch diệt ở đời. Từ thế giới bên kia nhìn về cõi người vẫn thấy ấm áp, vẫn chan hoà tình thương. Nó là siêu mà vẫn thực.Nó là cõi lặng, cõi vô biên mang bóng dáng cuộc đời. Biên độ của hiện thực không chỉ được mở rộng sang một thế giới siêu hình, mà còn ở tận miền suy tưởng. Biên độ của sự suy tưởng, vẻ đẹp của trí tuệ làm câu thơ của Chế Lan Viên trở nên lấp lánh, trong ảo giác, chinh phục trái tim con người bằng sự bất ngờ của những ý nghĩ, của những liên tưởng. Đó chính là vẻ đẹp của trí tuệ, một phẩm chất của thơ ca hiện đại.

Ngay từ tập Điêu tàn, Chế Lan Viên đã chọn cho mình một lối thơ giàu tính trí tuệ. Tứ thơ Chế Lan Viên thường hướng tới nắm bắt ý nghĩa triết lí hàm ẩn trong mỗi hiện tượng và bằng tưởng tượng liên tưởng mà liên kết các sự vật hiện tượng trong nhiều mối tương quan. Cuộc sống hiện ra trong thơ Chế Lan Viên vì thế không chỉ như nhà thơ xúc cảm về nó mà còn suy nghĩ về nó. Vì vậy, cuộc sống đi vào trong thơ có thể ít đi phần nào cái cụ thể sinh động, tươi tắn, nhưng bù lại, nó lại được làm giàu thêm ở sức khái quát ở sự hư ảo biến hóa:

Hạnh phúc màu hoa huệ

Nhớ nhung màu hoa lau

Biệt ly màu rách xé

Lãng quên đâu có màu.

Cách cảm nhận riêng trong thơ Chế Lan Viên tập trung ở khả năng lí giải, bình luận theo quan điểm của tác giả về hình tượng thơ, khi nói về hạnh phúc nhà thơ không định nghĩa một cách trừu tượng mà lại đi vào lí giải theo nghĩa đời thường.

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con, đè nát cuộc đời con, Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp, Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.

Từ đây, nếu áp dụng hình thức luận của Nga để cắt nghĩa thơ Chế Lan Viên, ta thấy Chế Lan Viên đã có điểm giống với Mikhail Bakhtin đó là xem thủ pháp trung tâm của tính văn chương, coi hình tượng trong tác phẩm nhất thiết phải lạ hóa. Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

Như vậy cách cảm nhận riêng về thế giới hiện thực trong thơ Chế Lan Viên được thể hiện một cách phong phú đa dạng, nhà thơ đã thực sự hòa vào cơn bão lớn của thời đại và rung động trước những nét đẹp bình dị đời thường của thiên nhiên và tình người. Tất cả là những xúc cảm buồn vui, suy tư trước cuộc sống gia đình, đời thường hằng ngày, trước thiên nhiên đã đi vào trang thơ ông một cách tự nhiên, dung dị, thấm đẫm vào dòng cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.

2.2. Trí tuệ thông qua cảm xúc, tình cảm của nhà thơ

Chế Lan Viên là một triết gia, một nhà tư tưởng trong thi ca.Thể hiện

chất ấy là những trí tuệ rất đặc sắc trong rất nhiều câu thơ, bài thơ của

Viên. Trí tuệ là phương tiện để mài sắc, vót nhọn tư tưởng. Nhưng trí tuệ trong thơ không phải trí tuệ suông, nó thông qua cảm xúc và tình cảm của nhà thơ. Ý nghĩa trí tuệ, tư tưởng được tạo lập, được toát ra từ hình tượng, hình ảnh, từ ngôn ngữ của bài thơ. Nó là sự trừu xuất từ những vật chất hiện hữu của bài thơ.

Anh tồn tại mãi

Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi.

Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên

(Từ thế chi ca)

Đây là trí tuệ về sự sống và cái chết, sự bất tử và cái tàn lụi, tồn tại và huỷ diệt, cái thoáng chốc và vĩnh viễn. Ở một chỗ khác Chế Lan Viên viết: Hãy để cho người ta quên anh đi, dẫm đạp lên tên tuổi anh- Rồi anh lại xanh hơn .Nếu muốn để được nhớ, hãy quên mình đi. Chính là trí tuệ của Phật, của Chúa, của đạo đức nghìn đời, của lẽ đời ông bà vẫn dạy con cháu. Lời tự răn mình mà cũng để răn đời, giản dị nhưng sâu sắc, chỉ lý.

Chế Lan Viên hay trí tuệ về thời gian trong sự vô thuỷ vô chung, vô lượng của thời gian và kiếp người rất đỗi hữu hạn. Lắng nghe tiếng kêu trong gỗ như thời gian liên tục nghiến, Chế Lan Viên chọn cho mình một trí tuệ hành động:

Có lẽ tốt hơn là trỗi đậy

Chong đèn xay cối lúa

Tiếng cối xay ù ù kia dẹp tan tiếng mọt gặm chân giường

(Hai thứ tiếng)

Ngày xưa, lúc còn chiến tranh chống Mỹ, sống hết mình với cuộc Chiến đấucủa nhân dân, Chế Lan Viên bình luận: Những ngày tôi sống ở đây là những ngày đẹp hơn tất cả. Dù mai sau có muôn vạn lần hơn. Rồi có một ngày khi chiến thắng, khi đất nước trên đài vinh quang nhưng trong cuộc mưu sinh đầu gian nan trước mắt, bao nhiêu câu hỏi không dễ tìm ra câu trả lời. Điều đó làm Chế Lan Viên day dứt:

Chẳng huân chương nào nuôi được người lính cũ!

Người linh cần một câu thơ giải đáp về đời

Tôi ủ ở

Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong

 Tôi xấu hổ

Thêm một lần ta thấy trách nhiệm đứng ngang tầm chiến luỹ của Chế Lan Viên, khi ông đi tìm một câu thơ giải đáp về cuộc đời hiện tại, có gì đó bị tráng như ngày xưa cha ông chúng ta từng đấm nát bàn tay trước cửa cuộc đời để đi tìm lẽ sống. Như vậy trí tuệ trong thơ Chế Lan Viên không bao giờ tách rời những vấn đề của cuộc sống.

Tư duy thơ Chế Lan Viên có cách tiếp cận riêng với hiện thực bề bộn của cuộc sống. Thơ ông không chỉ là tiếng nói của xúc cảm, của tri thức bề ngoài sự vật hiện tượng mà cái nhìn nghệ thuật của ông còn muốn khám phá sự vật “ Ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa”. Trí tuệ của nhà thơ hướng tới nắm bắt phần ý nghĩa trí tuệ hàm ẩn trong mỗi hiện tượng và bằng sự liên tưởng, tưởng tượng mà liên kết các sự vật, hiện tượng trong nhiều mối liên quan. Từ đó, tác giả làm nảy lên nhiều ý nghĩa sâu sắc. “ Tiếng hát con tàu” biểu hiện rất rõ khuynh hướng đó. Nhân vật trữ tình say sưa, hăm hở với tiếng hát lên đường. Con đường lên Tây Bắc cũng chính là con đường trở về với cuộc sống chung rộn rã, hối hả của dân tộc, của đất nước và đông đảo quần chúng nhân dân. Từ những kỷ niệm ân tình với nhân dân trong kháng chiến, Chế Lan Viên đã nâng lên thành những suy ngẫm, chiêm nghiệm giàu sức khái quát. Đó là kết quả từ những trải nghiệm của cuộc đời người lính nhà thơ:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.

Bốn câu thơ dung dị đi từ những chi tiết, hình ảnh, cảm xúc cụ thể để đưa đến một kết luận mang tính triết lí sâu xa.Thì ra chính miền đất thân thương có sương giăng có mây phủ ấy, những kỉ niệm không thể quên ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn ta. Chỉ trong khoảnh khắc chia tay tất cả như ùa về...Những sự vật vô tri và cả những con người ở đó bỗng trở nên bịn rịn luyến lưu, khó rời xa tựa như cuộc chia tay của nhưng người yêu với những người yêu.

Khi Chế Lan Viên viết về tình yêu và nỗi nhớ, thơ ông cũng lấp lánh, rực rỡ màu sắc của cảnh vật. Cảm xúc trong thơ ông cũng bồi hồi da diết, xôn xao những dư vị tình yêu nồng nàn, say đám:

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương

Viết về tình yêu đôi lứa nhưng người đọc vẫn có thể nhận biết ở đây tình yêu không chỉ giới hạn trong tình yêu lứa đôi thông thường. Đó là sự kết tinh sâu nặng với tình yêu quê hương đất nước. Chính tình yêu đã biến những miền đất xa lạ trở thành thân thiết như quê hương, hóa thành máu thịt trong ta từ lúc nào.“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở; Khi ta đi dất đã hóa tâm hồn”, “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Những câu thơ cô đúc như một châm ngôn chứa đựng những phát hiện về qui luật tâm lí sẽ là thiếu nếu không có đôi cánh tình cảm nâng đỡ. Triết lí mà vẫn vô cùng tự nhiên dung dị. Đó là điểm nổi bật của thơ Chế Lan Viên. Quá trình thơ Chế Lan Viên từng được ví: Từ “Thung lũng đau thương tới

cánh đồng vui” đi từ “chân trời của một người đến chân trời của mọi người.”

Nhưng có ai biết để thực hiện cuộc hành trình đó là biết bao trăn trở, lột xác, bao khó khăn trở ngại, trên đường thơ. Chế Lan Viên đã từng tổng kết về đời thơ mình với những vần thơ đầy suy tưởng – trí tuệ:

Xưa phù du mà nay đã phù sa

Xưa bay đi mà nay đã không trôi mất

Cho đến được lúa vàng đất mật

Phải trải trên mình bao trận gió mưa qua.

Câu thơ thấm đẫm dư vị trí tuệ về con đường sáng tạo đầy chông gai của người nghệ sĩ. Cũng là một sự tổng kết cho bất cứ ai đã ở trên vinh quang, thành quả cuộc đời khi nhìn lại chặng đường quá khứ đã đi qua.

Sức mạnh thơ của Chế Lan Viên chủ yếu được tạo lập bằng vẻ đẹp trí tuệ trong hình tượng thơ của tác giả bao giờ cũng nổi lên từ ngọn sóng cảm xúc và vươn lên chất trí tuệ. Ta nhớ lại các tập thơ trước với những hiện tượng thơ đậm đặc chất suy tưởng, tầng tầng lớp lớp hình ảnh, hiện lên trong nhiều đường nét lạ và màu sắc chói chang kỳ ảo: Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi, Kết nạp đảng trên quê mẹ, Người đi tìm hình của nước...( Trong Ánh sáng và Phù sa) Sao chiến thắng, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng, Con mắt Bạch Đằng, Con mắt Đống Đa...( Trong Hoa ngày thường, Chim báo bão).Ta gặp lại cái rậm rập, lớp lớp tầng tầng ấy ở khá nhiều bài trong “ Đối thoại mới”. Ánh sáng trí tuệ đem đến cho hình tượng thơ Chế Lan Viên vẻ đẹp lóng lánh nhiều màu của đêm hội pháo hoa. Trên nền trời giao cảm vô hình giữa nhà thơ và bạn đọc, cái đẹp trí tuệ ấy nở bung thành muôn chùm hoa ngũ sắc, xòe nở mãi những tia đẹp bất ngờ từ nhiều điểm nổ bất chợt của xúc động. Từ một màu da, từ nhiều màu da, hiện tượng thơ chuyển động cuồn cuộn như sóng, kết thành một trận tuyến cao hơn cả màu da”, trút tiếng súng căm hờn, tiếng trống nghìn năm cũ Châu phi nổi giận vào đầu giặc Mĩ. Từ một cành đào tươi thắm cụ thể của mùa xuân đất nước, suy tưởng xuôi theo dòng xúc cảm trong một ngày chiến thắng, nâng lên thành biểu tượng cành hoa Việt Nam, chói ngời thế kỷ, nâng lên nữa thành cành hoa chân lý đi qua cả thời gian:

Cầm nhành hoa Việt Nam

Chói ngời trong thế kỷ

Cầm cành đào chân lý

Ta đi qua thời gian.

Từ một hiện tượng thiên nhiên, một tên ngõ… một cái gì đó thoáng qua tác giả nâng thành nghĩa đời và ý trí tuệ trong các bài thơ ngắn và nhiều chùm tứ tuyệt:

Ngõ rất cụt mà lòng sâu thẳm

 Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm

Thương một đời đâu phải tạm thương

Ấy là chỉ tên ngõ Tạm Thương mà đã gợi lên một cái gì rất nhẹ, rất sâu của đời của người.

Cũng có khi Chế Lan Viên không bắt đầu từ đó. Có thể ông đi từ những vấn đề khái quát như các bài: Tuyên bố của mỗi lòng người, Khẩu súng, Cành hoa, Nghĩ suy 68, Đường sáng tuyệt vời... song hiện tượng thơ ông bao giờ cũng nổi lên như một cồn đảo bốn bề âm vang những đợt sóng suy tưởng... và điều đó trở thành đặc trưng phân biệt ông với các nhà thơ khác. Bên cạnh sự tồn tại nhiều phong cách thơ hiện đại, Chế Lan Viên hiện lên với một màu sắc riêng. Màu sắc ấy có thể gọi thành phong cách riêng: nhà thơ trí tuệ của cảm xúc. Chất trí tuệ của cảm xúc lại càng dễ dàng thăng hoa khi ông viết về mảng đề tài tình yêu. Tình yêu vốn là mảnh đất màu mỡ để các thi nhân thỏa sức khai phá. Và cứ ngỡ rằng tình yêu không thể là mảnh đất của trí tuệ. Tình yêu có lí lẽ riêng, lí lẽ của con tim. Nhưng đọc thơ tình yêu của Chế Lan Viên ta bắt gặp rất nhiều những cung bậc xúc cảm khi lắng đọng, trầm tĩnh, lúc ồn ào sôi nổi vang ngân nhưng tất thảy đều mang dấu ấn của một lý trí sắc sảo và tinh tế. Bởi có người nhận xét: Thơ tình của ông là thơ tình của người thích phân tích, ưa bình luận.

Cải rét đầu mùa anh rét xa em

Đêm dài lạnh chặn chia làm hai nửa

 Một nửa cho em ở vùng sóng bể

Một nửa cho mình ở phía không em.

(Rét đầu mùa nhớ người đi về phía bể )

Sương giăng mờ trên ngõ tạm thương

Ngõ rất cụt mà lòng xa thẳm

Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm

Thương một đời đâu phải tạm thương.

Có lúc thơ ông lại mang vẻ trầm mặc, đầy suy tưởng trong một buổi chia tay lặng lẽ:

Buổi sáng em xa chi

Cho chiều mùa thu đến

Để lòng anh hóa bến

Nghe thuyền em ra đi.

Ngày em đi vào buổi sáng thì ngay buổi chiều mùa thu đã ùa về. Mùa thu ở đây chưa chắc đã là mùa thu của thiên nhiên theo quy luật của đất trời nhưng đó là thu của tâm trạng, thu của lòng người. Sự thiếu vắng của em làm cho không gian bao trùm một mùa thu buồn man mác, bâng khuâng. Lòng anh là bến thu có thể nghe thấu con thuyền em trở ngược — ra đi. Phải thật tinh tế và giàu sự liên tưởng thì Chế Lan Viên mới sáng tạo những vần thơ đầy ắp tâm trạng như thế.

Thơ Chế Lan Viên trong những năm kháng chiến chống Mĩ

Trong những năm kháng chiến chống Mĩ , Tổ quốc tươi đẹp và dân tộc anh hùng là cảm hứng chủ đạo của Chế Lan Viên, nhà thơ những muốn :

Khi ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc

Thành một nhành hoa mát mắt cho đời

Với Chế Lan Viên, chưa bao giờ Tổ quốc lại cao đẹp như những tháng năm kháng chiến chống Mĩ . Nhà thơ không ngần ngại khẳng định đó là những ngày đẹp hơn tất cả, ngày vĩ đại. Trong hoàn cảnh đó, vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc Việt Nam càng ngời sáng hơn. Nhà thơ tự hào, kiêu hãnh viết :

Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng
Ta mọc dậy trước mắt nghìn nhân loại
Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng.
( Thời sự hè 72, bình luận )

Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mĩ đã tỏa nắng cho thơ Chế Lan Viên để nhà thơ có thêm nhiều vần thơ tràn đầy sức sống và sức hấp dẫn. Tâm hồn thơ Chế Lan Viên rộng mở hướng tới khắp mọi miền của Tổ quốc để nhạy bén thu nhận chất thơ của đời sống và hòa nhịp sống của mình với nhịp sống của dân tộc. Nhà thơ viết về những cuộc tiễn đưa ra trận với kỉ niệm của cái hôn cân vạn ngày lửa đạnvà trầm tích trong bể sâu của nhớ, là chút thương nhớ giắt bên mình cùng súng đạn.

Hình ảnh của cuộc sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng đi vào thơ Chế Lan Viên ngày càng thêm đậm đà, sâu sắc. Nhà thơ tự hào viết những tên làng, tên núi, tên đường, tên sông gắn liền với những chiến công hiển hách như: Trường Sơn, đường Chín, ngã ba Ðồng Lộc, Cồn Cỏ, Quảng Bình, Vĩnh Linh. Nhà thơ cảm nhận cuộc sống hôm nay mỗi tấc núi sông thành thơ và hóa sử và các thế hệ nhìn chỗ ta đứng lúc này như những hải đăng. Tất cả những điều đó chính là chất vàng, chất ngọc của cuộc đời đã góp phần tạo cho Chế Lan Viên có được nhiều tứ thơ hay.

- Trước hiện thực đời sống đó, nhà thơ nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp của Tổ quốc và sự gắn bó rất đỗi đằm thắm, thiết tha với Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha ta như vợ như chồng của con người Việt Nam :

Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều,
bờ tre mái rạ
Mái đình cong cong như bàn tay em gái vẫy giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả,
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo
( Thời sự hè 72, bình luận )

- Hình ảnh của những bà mẹ, người chị, người vợ, những chàng áo vải, những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi , đã đi vào thơ Chế Lan Viên với vẻ đẹp chân chất, bình dị và thật đáng tự hào. Cũng chính trong những năm tháng nước sôi lửa bỏng này, nhà thơ cảm nhận trọn vẹn hơn về vai trò to lớn của nhân dân:
Nhân dân không có một thanh gươm vung một cái đến trời mây
Nhưng họ gánh lịch sử đến nghìn lần lớn hơn đời họ.

Trong suốt quá trình sáng tạo thơ, Chế Lan Viên luôn có khát vọng phát giác sự việc ở cái bề chưa thấy, khám phá sự vật, hiện tượng ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa để từ đó đem lại nhiều vần thơ mới lạ, đặc sắc, gây cho người đọc sự bất ngờ, thú vị.

Với trí tưởng tượng phong phú, sức liên tưởng kì diệu, cách nhìn sự vật trong sự đối lập và luôn tranh luận, đối thoại, Chế Lan Viên chiếm lĩnh được thực tại cuộc sống để từ đó có cách suy ngẫm, triết lí sâu sắc, cũng như sự khái quát chính xác về những vấn đề trong đời sống.


Thơ Chế Lan Viên có cảm xúc đằm thắm thiết tha. Biết bao vần thơ của ông trở thành nhành hoa mát mắt cho đời. Thơ ông có khi mềm mại như lời ru của mẹ, như câu hò, điệu hát có sức ngân xa, thấm sâu trong tình cảm người đọc; có khi mang nặng nghĩa tình và những nỗi trăn trở, thao thức; có khi chất chứa sự suy tưởng triết lí về một vấn đề nào đấy trong cuộc sống. Có thể nói, cái tôi trữ tình rất chủ động và năng động hòa nhập với mọi đối tượng để cảm xúc, suy luận, tranh luận, đối thoại. Vì lẽ đó, đến với thơ Chế Lan Viên, người đọc nhận thấy sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ sắc sảo và cảm xúc nồng cháy mãnh liệt. Sức sống và sức hấp dẫn của thơ Chế Lan Viên phần nào được bắt nguồn từ đó.


Tuy nhiên, trong thơ Chế Lan Viên có khi cảm xúc và trí tuệ thiếu kết hợp hài hòa, khi đó thơ ông rơi vào sự cầu kì, khó hiểu, xa lạ với tình cảm, nhận thức của người đọc.

Càng yêu Tổ quốc, càng nhận thức sâu sắc bản chất của kẻ thù và những nỗi đau thương dân tộc phải trải qua, những khát khao về cuộc sống yên bình hạnh phúc, Chế Lan Viên đã sáng tạo nên những nhành hoa mát mắt cho đời. Ðó là những hình ảnh bắt lòng ta nhớ mãi ở các bài thơ : Sông Cầu, Hoa ngày thường, Ði trong chùa Hương, Mây của em, Lau mùa thu, Kỉ niệm có gì Cuộc sống không chỉ đòi hỏi Chế Lan Viên suy ngẫm, triết lí, mà còn giúp cho nhà thơ có được sự cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp giản dị của đời sống hàng ngày qua những vần thơ viết về các loài hoa, về tình yêu đằm thắm thiết tha và sự ngọt ngào của cuộc sống hạnh phúc gia đình qua các bài : Hoa thảo hoa vàng, Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, Chia, Cảm ơn, Con đi sơ tán, Ðặt tên con,…
Với tình cảm nồng nàn, trí tuệ sắc sảo và sự gắn bó sâu sắc với hiên thực đời sống chiến tranh, Chế Lan Viên đã sáng tạo được nhiều vần thơ xúc động đậm đà chất trữ tình, hùng ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.


Những năm chống Mĩ cứu nước, Chế Lan Viên cảm nhận những vấn đề của cuộc sống trong sự đối lập : giữa cảnh hòa bình với chiến tranh; giữa đoàn viên, hội ngộ với chia li, từ tạ; giữa bể căm thù với bể yêu thương, giữa cánh đồng vàng óng ả, cửa sổ sơn hồng với pháp trường và những bãi tha ma; giữa văn minh với dã man; giữa tồn tại với hủy diệt; giữa sống với chết; giữa cái bình thường với phi thường; giữa trong với đục; giữa nhớ với quên. Bằng cách cảm nhận đó, nhà thơ lí giải và thể hiện được những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh, cũng như vạch trần bản chất hung bạo và xảo quyệt của kẻ thù xâm lược.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét