Chất triết học trong thơ Chế Lan Viên
Cùng với lịch sử tư duy của con người là sự ra đời của lịch sử triết học. Bất kì ngành nghiên cứu khoa học nào, kể cả nghệ thuật và thơ ca đều phải vận dụng tư duy triết học. Đã có giai đoạn trong văn học phương Đông, người ta quan niệm “văn sử triết bất phân” - một tác phẩm văn học đồng thời là một tác phẩm sử học và triết học. Tuy ngày nay quan niệm trên đã thay đổi, nhưng ở những tác phẩm văn học đích thực, độc giả vẫn nhận thấy những yếu tố triết học cũng như sử học. về khái niệm triết học trong thơ, trước hết phải nói rằng, đây chỉ là một khái niệm có ý nghĩa tương đối, bởi vì nhà thơ đích thực nào cũng có tư duy triết học ở mức độ ít hay nhiều, nhà thơ nào cũng có một hệ thống quan niệm, cách lí giải các vấn đề của tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, một Số nhà thơ đã lấy những vấn đề đó làm đối tượng mô tả trực tiếp và là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của mình. Những nhà thơ như vậy có thể được coi là những nhà thơ có tư duy triết học đậm nét. Xét ở phương diện này, Chế Lan Viên là một nhà thơ như vậy. Nói đến Chế Lan Viên là nói đến một nhà thơ trí tuệ, có tư duy triết học sâu sắc và phức tạp. Chất triết học trong thơ ông được bộc lộ ở nhiều phương diện như cách nhìn của tác giả về vũ trụ, về thời gian, quan niệm về vấn đề tồn tại và hư vô, sống và chết...
Quan niệm thơ của Chế Lan Viên
Tuy vậy, Chế Lan Viên từng nhiều lần phát biểu quan niệm thơ của mình, trong đó ông nhấn mạnh "Thơ không chỉ đưa tu mà còn thức tỉnh, không chỉ ở hơi mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan" (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...). Tư duy thơ của Chế Lan Viên có cách tiếp cận riêng với đời sống. Không dừng lại ở xúc cảm, ở bề ngoài của sự vật hiện tượng cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ muốn khám phá sự vật ở cái bề sâu, ở cái bé sau, ở các bé xã" Trị tuế của nhà thơ hưởng tới năm bắt cái ý nghĩa triết lí hàm ẩn trong mỗi hiện tượng, và bằng tưởng tượng, liên tưởng mà liên kết các sự vật, hiện tượng trong nhiều mối tương quan từ đó làm nảy lên những ý nghĩa sâu sắc. Cuộc sống hiện ra trong thơ Chế Lan Viên, vì thế, không chỉ như nhà thơ xúc cảm về nó, mà còn – và điều này quan trọng hơn — như nhà thơ suy nghĩ về nó. Cuộc sống đi vào trong thơ vì thế mà có thể ít đi phần nào cái cụ thể, chi tiết, sinh động, cái "non tơ" tươi tấn của nó, nhưng lại được làm giàu thêm ở một phía khác ở sức khái quát triết lí, ở sự hư ảo biến hóa, ở sự đa diện và đa dạng của các điểm nhìn, của các quan hệ...
Tuy nhiên, cũng dễ nhận ra rằng khi nào trí tuệ chưa đi liền với xúc cảm, hoặc những suy nghĩ chưa bắt rễ sau vào trong thực tiễn sống động của đời sống mà nặng màu sắc tư biên trừu tượng thì câu thơ, đoạn thơ dễ rơi vào kho khan hoặc cầu kì, xa lạ.
Và điều đó ta có thể thấy rõ trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên, đã thể hiện ra phong cách thơ ca của ông. Tác phẩm được in trong tập “Ánh sáng và phù sa”, được viết nhân dịp cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc được mở ra trong những năm 1958 – 1960. Nhan đề là khúc ca say mê về tình yêu và lòng biết ơn sâu sắc với nhân dân, với đất nước của một tâm hồn thơ đã được tái sinh trong cách mạng và kháng chiến.

Sự suy tưởng về vũ trụ trong thơ Chế Lan Viên
Đầu tiên trong bài thơ của ông về có sự suy tưởng về vụ trụ như :
“Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”
Mượn các hình ảnh của thiên nhiên, vũ trụ để tỏ lòng mình sau khi thay đổi góc nhìn.
Nhà thơ cho rằng con người có thể hiểu được và làm được tất cả, kể cả việc cải tạo thế giới. Khát vọng của con người là vô cùng và khả năng của con người là vô tận. Đây chính là quan điểm của chủ nghĩa duy vật. Trong thơ Chế Lan Viên không còn sự cách biệt, tương phản giữa cái nhỏ bé hữu hạn của con người với cái mênh mông vô hạn của vũ trụ. Như hai câu thơ :
“Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng”
Sự vận động mạch cảm xúc về vũ trụ của Chế Lan Viên gắn với sự vận động của tư duy nhà thơ. Cho dù hệ thống quan niệm về vũ trụ của nhà thơ chưa thống nhất, mang đậm dấu ấn chủ quan, nhưng nó bộc lộ được tính chất đa dạng, phức tạp của tư duy triết học Chế Lan Viên.
Tiếp theo đó là sự suy tưởng về thời gian, Chế Lan Viên luôn đắm mình trong những kỉ niệm của quá khứ. Tám khổ chủ yếu đều nói về nỗi nhớ, nhớ từ hình ảnh mộc mạc nhớ “mẹ”, nhớ “thằng em liên lạc” nhớ “dân làng” nhớ “anh du kích”, nhớ “ơn nuôi”, nhớ “em’…v..v… tác giả nhớ tất cả và dùng nỗi nhớ để nói lên hiện tại, một hiện tại được đánh đổi.
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”
Chế Lan Viên gọi kháng chiến với sắc thái trìu mến thiết tha, như đang gọi một người thân thiết của mình, ở đó không chỉ là nỗi đau mà còn là niềm tự hào, vinh dự trước thành công vẻ vang của dân tộc. Trong quá khứ, cuộc kháng chiến 9 năm dài đằng đẵng của dân tộc được so sánh “như ngọn lửa” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự nhiệt thành cách mạng, gắn liền với những chiến công rực rỡ, vang dội và là ngọn lửa của lí tưởng soi đường cho các thế hệ thanh niên trẻ đang bế tắc. Đồng thời “ngọn lửa” ấy còn là ánh sáng soi đường chỉ lối cho các thế hệ sau này, các thế hệ của nghìn năm sau nữa, trở thành một định hướng về lý tưởng, về khát vọng cách mạng cho người dân Việt Nam trong các thế hệ nối tiếp. Từ đó tác giả vạch ra nhiệm vụ cho các thế hệ tương lai rằng “Con đã đi nhưng con cần vượt nữa”, nhắc lại quá khứ “con đã đi” và nhắc về cuộc lột xác của các lớp trí thức sau cách mạng tháng Tám. Rồi từ quá khứ ấy tác giả đã đặt ra nhiệm vụ, mục tiêu cho chính mình và các thế hệ mai sau rằng “cần vượt nữa”, cần có những cuộc lột xác khác, dứt khoát, mạnh mẽ và quyết liệt hơn hôm qua, cần biết từ bỏ khung trời cá nhân chật hẹp, tù túng, gò bó để đi đến với khung trời rộng lớn của nhân dân, chung tay góp sức xây dựng, kiến thiết kinh tế làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh hơn . Mà cụ thể hơn là “Cho con về gặp Mẹ yêu thương”, cách gọi “Mẹ” đầy trìu mến yêu thương. “Mẹ” ở đây chính là nhân dân, là nguồn nuôi dưỡng cho kháng chiến đã qua, nguồn nuôi dưỡng cho cảm hứng sáng tác nghệ thuật của các văn nghệ sĩ.
Phân tích bài thơ "Tiếng hát con tàu"_ Chế Lan Viên
Sau khi đưa ra những nhận thức về kháng chiến và nhiệm vụ, mục tiêu tiếp theo của mỗi con người, thì khổ thơ thứ 5 nhà thơ đã bộc lộ niềm hân hoan vui sướng khi gặp lại nhân dân.
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Tác giả đã khéo léo khi dùng biện pháp so sánh mở rộng trùng điệp, “con gặp lại nhân dân” được ví như là “nai về suối cũ”, là “cỏ đón giêng hai” , “như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, hay như “chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh nhỏ bé, dung dị, thân thuộc, đời thường và đều có một điểm chung đó là đang cạn kiệt sức sống, rồi bỗng gặp được nguồn nuôi dưỡng vô tận. Điều đó ứng với hình ảnh của một cái “tôi” giam mình trong khung trời chật hẹp, nhỏ bé và hình ảnh nhân dân vĩ đại, bao la. Khi trở về với nhân dân cái tôi của người nghệ sĩ dường như đã hồi sinh trở lại, lại tràn trề dạt dào sức sống, với tâm trạng hân hoan, háo hức, vui sướng và mê say. Từ đó khái quát được một chân lý hạnh phúc to lớn nhất là khi được trở về với cuộc đời rộng mở của nhân dân.
Hình ảnh mộc mạc trong thơ
Từ đó, nhà thơ lại đi vào cụ thể hóa hình ảnh của nhân dân thông qua các khổ thơ tiếp theo 6, 7, 8.
“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”
Nhân dân giờ đây không còn là một khái niệm chung chung trừu tượng nữa mà đã được cụ thể hóa thông qua hình ảnh những con người gần gũi thân thương, được tác giả xưng hô một cách thân tình “anh-con”, “em-con”, “mế”, như là những người ruột thịt trong gia đình của mình. Nhân dân được hiện lên với hình ảnh “người anh du kích” đi cùng với chi tiết “chiếc áo nâu” . Khi hình ảnh đó gắn với hình ảnh “suốt một đời vá rách”, cho ta thấy được cuộc sống lam lũ, thiếu thốn, nghèo khổ, có phần tội nghiệp của người anh du kích, nhưng khi gắn với hình ảnh “đêm công đồn”, thì lại hiện lên hình ảnh của một người du kích hết sức dũng cảm, gan dạ, hào hùng, oanh liệt, khi gắn với hình ảnh “đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”, lại thấy được tình cảm yêu thương vô bờ dành cho các em của mình của người anh du kích.
Ở khổ thơ tiếp theo hình ảnh nhân dân còn được hiện lên thông qua “thằng em liên lạc”. Người em liên lạc hiện lên trong không gian “rừng rậm”, từ “bản Na”, qua “bản Bắc”, bước chân của em dường như in dấu trên mọi nẻo đường Tây Bắc, hiện lên trong thời gian “sáng-chiều”, “mười năm tròn”, nói lên rằng bước chân của em luôn bền bỉ, băng qua suốt cả quãng thời gian dài kháng chiến để đem đến thắng lợi cho dân tộc. Với tất cả những điều đó, cuối cùng đã đạt được kết quả vô cùng xuất sắc “Mười năm tròn chưa mất một phong thư”.
Trong khổ thơ thứ tám, thì nhân dân lại hiện lên thông qua hình ảnh “mế” (người mẹ), thể hiện mối quan hệ khăng khít gắn bó như ruột thịt. Hình ảnh “mế” gắn với chi tiết “lửa hồng soi tóc bạc”, nhằm thể hiện mái tóc ấy đã in dấu thời gian, sương gió phôi pha của cuộc đời. Mế đã tái sinh cuộc đời con một lần nữa qua những “mùa dài” thức trông con ốm bệnh. Để đến cuối cùng tác giả đi đến một lời khẳng định sâu sắc: “Con với mế không phải hòn máu cắt” / “Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”, bộc lộ lòng biết ơn, tình yêu thương, gắn bó tha thiết vô tận kéo dài mãi không thôi mà nhà thơ dành cho nhân dân.
Tính tìm về quá khứ trong thơ
Cảm xúc dần thay đổi khi tác giả chuyển từ nhớ người sang nhớ cảnh được thể hiện ở khổ thơ thứ 9.
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Nếu như Tố Hữu với “Nhớ gì như nhớ người yêu” – một nỗi nhớ chẳng thể gọi tên hay Quang Dũng “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ vô định không đầu không cuối, thì nỗi nhớ của Chế Lan Viên lại được định hình một cách rõ ràng, cụ thể. Biện pháp điệp từ “nhớ” vừa dùng để nhấn mạnh, vừa để thể hiện nỗi nhớ trào dâng trong tâm hồn, nào là “bản sương giăng”, “đèo mây phủ”, vốn là những vẻ đẹp mang nét đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Từ những xúc cảm riêng ấy tác giả đã nâng lên thành quy luật tình cảm của con người, trong câu “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?. Cũng từ quy luật ấy tác giả lại một lần nữa nâng lên thành một triết lý “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở” / ”Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”, dựng lên một cặp đối lập “khi ta ở” và “khi ta đi”. Lúc ta ở thì đất chỉ là một địa danh vô tri vô giác, là một nơi xa lạ nhưng khi ta đi thì mảnh đất ấy đã trở thành kỷ niệm, trở thành một phần trong trái tim trong tâm hồn ta, nó gắn bó thân thiết lạ kỳ.
Từ nỗi nhớ về nhân dân, nhớ về cảnh vật Tây Bắc tác giả lại chuyển mình sang sang sự suy ngẫm về tình yêu và đất lạ.
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.
Tiếp tục với mạch cảm xúc dạt dào khi nhớ về nhân dân, nhớ về cảnh vật tác giả chuyển sang nỗi nhớ bất chợt về người yêu. Nỗi nhớ ấy được diễn đạt bằng một hình ảnh rất độc đáo đó là “như đông về nhớ rét”. Cá giá rét chính là linh hồn của mùa đông, “mùa đông” – “giá rét” chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, và nỗi nhớ khắc khoải ấy cũng vậy, bắt buộc phải cùng tồn tại và làm nên giá trị của nhau. Từ nỗi nhớ lại chuyển sang suy ngẫm về tình yêu, tình yêu ấy được so sánh với “cánh kiến hoa vàng”, hay như “Xuân đến chim rừng lông trở biếc”. Cánh kiến chỉ sống được trên thân cây chủ là hoa vàng và ngược lại cây thân gỗ hoa vàng cũng rất cần có cánh kiến để tạo ra những giá trị quý giá, điều đó có nghĩa là chúng không thể tách rời nhau, ngược lại chúng gắn bó cực kỳ khăng khít và bền chặt.
Mùa xuân đến vạn vật như được hồi sinh, trong đó có cả loài chim rừng, bộ lông vốn xác xơ của nó nay được trở lại với cái vẻ mượt mà, óng ả, điều đó cũng làm cho mùa xuân thêm rực rỡ, diễn tả quan hệ gắn bó thắm thiết của tình yêu đôi lứa. Cuối cùng từ nỗi nhớ, từ tình yêu ấy Chế Lan Viên đã nâng nó lên thành một triết lý “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Trong nỗi nhớ về em, tác giả đã theo mạch nói về tình yêu của đôi ta, gợi lại những kỷ niệm đôi lứa trong những tháng ngày kháng chiến. Đó là cái nắm tay ở “cuối mùa chiến dịch”, cái nắm tay đó không chỉ thuần túy là của tình yêu đôi lứa, mà nó còn là cái nắm tay của tình quân dân, thể hiện tinh thần đoàn kết, toàn dân góp phần làm nên chiến thắng vinh quang của dân tộc. Là mùi hương của vắt xôi nuôi chiến sĩ, nồng nàn lan tỏa cho đến tận bây giờ, thể hiện tình người ấm áp, tình quân-dân tha thiết, gắn bó.
Cuối cùng là những suy ngẫm về tồn tại và hư vô, sống và chết trong sự tự liên hệ vói bản thân. Bốn khổ thơ cuối bài chính là khúc hát lên đường vang dội của nhà thơ. Chế Lan Viên vẫn không ngừng suy ngẫm về tồn tại và hư vô, sống và chết, vấn đề đó một lần nữa được nêu ra ở dạng câu hỏi
“Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”
Mở ra cho khổ thơ thứ 13 lại là một câu hỏi tu từ quen thuộc “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”, nói lên việc quyết định lên đường là do đất nước vẫy gọi, quan trọng hơn đó là do lòng ta vẫy gọi, thôi thúc. Quyết định ấy xuất phát từ những điều giản đơn “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”, là nhân dân Tây Bắc đang tha thiết vẫy gọi, điều đó khiến ta không thể chần chừ thêm được nữa mà vội hối thúc:
“Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội”
“Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”.
Tác giả đã dùng kiểu câu cầu khiến để đưa ra mệnh lệnh, diễn tả sự vội vàng, cuống quýt, thúc giục khiến ta không thể chậm trễ. Hình ảnh “vỗ cánh”, mang ý nghĩa biểu tượng khiến chúng ta liên tưởng đến việc nhà thơ đang muốn bay lên vượt ra khỏi khung trời nhỏ bé, chật chội của đời sống cá nhân để vươn tới khung trời rộng lớn của nhân dân, thể hiện niềm khát khao cháy bỏng của nhà thơ. Khao khát được chung tay góp phần tạo lên sự đổi mới tươi đẹp cho đất nước, tạo dựng một cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Sau những lời giục giã, thôi thúc ấy nhà thơ đã chính thức lên đường với khí thế được thể hiện qua:
“Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”
Lại một lần nữa sử dụng cấu trúc điệp, thể hiện sự vội vàng, tinh thần hăng hái, đầy nhiệt huyết lên đường tạo lên sức mạnh đoàn kết, thể hiện thái độ hứng khởi, nhiệt tình, say mê. Vì đích đến phía trước đang rộng mở ra vẫy gọi, thể hiện qua hình ảnh “Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào”, diễn tả những vụ mùa bội thu, sự vui tươi, náo nhiệt, niềm vui sướng khắp mảnh đất Tây Bắc, và “Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”, gợi ra một không khí lao động nhiệt thành, hăng hái, tràn đầy sức sống.
Trong khí thế lên với mảnh đất Tây Bắc, trở về với nhân dân, đất nước, tác giả bỗng chợt nhớ về quá khứ và có sự so sánh với hiện tại trong khổ thơ (khổ 14) :
“Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta”.
Nhớ lại quá khứ bi thương đó là những ngày “mười năm nhân dân máu đổ”, mười năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao, đầy mất mát đau thương, biết bao nhiêu thế hệ cha anh đã ngã xuống, để rồi “vàng ta đau trong lửa”, đây là biểu tượng cho những giá trị quý giá nhất, chỉ vẻ đẹp của cả thiên nhiên và con người Tây Bắc, tiềm năng kinh tế dồi dào, là nguồn mạch cảm hứng sáng tác quý giá. Chiến tranh đã vùi dập tất cả những giá trị trân quý ấy. Quay trở về hiện tại tác giả thấy được sự tiếp nối trong đối lập “nay trở về, ta lấy lại vàng ta”, khôi phục lại dáng vẻ tươi đẹp của Tây Bắc, tìm lại nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào. Cuối cùng ông nhận ra một chân lý rằng “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”.
“Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”
Về vùng đất Tây Bắc lấy lại vàng ta, lấy lại cả những cơn mơ, những mộng tưởng, lấy cả những niềm tin, niềm hi vọng về tương lai huy hoàng của dân tộc. Trong niềm hứng khởi ấy nhà thơ lại tiếp tục tái hiện hình ảnh con tàu đang thảnh thơi thụ hưởng “vầng trăng”, đó là biểu trưng cho vẻ đẹp của cuộc đời, của thiên nhiên, của con người Tây Bắc. Và chính bản thân tác giả cũng đang tận hưởng những vẻ đẹp ấy thông qua hình ảnh uống “Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”, dường như vẻ đẹp của cuộc đời kia có dáng hình, thể hiện sự tận hưởng trọn vẹn, đã đầy và no nê.
Kết luận
Như vậy ta thấy, “Tiếng hát con tàu” là bài thơ thể hiện niềm khát vọng và hân hoan, vui sướng trong tâm hồn của nhà thơ khi được trở về với nhân dân, để tìm lại cái nguồn nuôi dưỡng cho cảm hứng sáng tạo nghệ thuật và cho hồn thơ của mình. Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ được thể hiện ở sự sáng tạo hình ảnh gắn với những liên tưởng phong phú , độc đáo, bất ngờ, tạo nên một vẻ đẹp tinh tế rực rỡ cho thơ ca của Chế Lan Viên, bên cạnh đó thơ ông còn đặc biệt bởi sự thống nhất, hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc, đem đến cho độc giả những triết lý suy tưởng sâu xa.
0 Nhận xét