Thơ Nôm Đường luật và Truyện thơ Nôm

 

Thơ Nôm Đường luật trung đại Việt Nam

-        Là sự kết hợp hào hòa giữa yếu tố Nôm và yếu tố Đường Luật

·      Yếu tố Nôm:

o   Đề tài: Hướng tới vấn đề đất nước dân tộc

o   Ngôn ngữ: Chữ Nôm, từ Việt, văn học dân gian, ngôn ngữ đời sống

o   Hình ảnh: Dân dã bình dị

o   Câu thơ là câu 5 chữ, 6 chữ đan xen thất ngôn

o   Ngắt nhịp: 3 / 4

·      Yếu tố Đường luật

o   Chủ đề: Hướng tới quan niệm, phạm trù Nho giáo, Đạo giáo

o   Ngôn ngữ: Từ Hán – Việt, điển cố, điển tích, thi liệu hán học, được trau chuốt trong dùng từ

o   Hình ảnh: Tao nhã, mĩ lệ, ước lệ

o   Câu thơ: Tuân thủ luật bằng – trắc; niêm; liêm; đối ở thơ Đường luật.

 

Ví dụ:Trúc bài 3”_Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập   

Trượng phu tiết cứng khác người thay,
Dưỡng dụ trời có ý vay?
Từ thuở hoá rồng càng lạ nữa,
Chúa xuân ngẫm càng huyễn thay.

 

Truyện thơ Nôm

-       Là loại hình tự sự bằng thơ dùng chữ nôm để sáng tác, truyện được kể bằng thơ nên là sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình

·      Yếu tố tự sự

o   Phản ánh cuộc sống xã hội thông qua trình bày mô tả tính chất hoàn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện hệ thống có những biến cố, sự kiện.

·      Yếu tố trữ tình

o   Thể hiện qua phương thức thơ, qua thơ tác giả bộc lộ trực tiếp cảm xúc qua cách “tả cảnh ngụ tình” và trong thơ có tính vần điệu, tính nhạc

-       Có hai loại truyện thơ Nôm

·      Truyện thơ Nôm bình dân do nhân dân tầng lớp thấp sáng tác thể hiện quan điểm, ước nguyện của nhân lao động → Thườngmộc mạc, nôm na, tí có sự chau chuốt về nghệ thuật

·      Truyện thơ Nôm bác học do tầng lớp nho sĩ có trình độ cao về học vấn sáng tác thể hiện lễ giáo phong kiến, có ý nghĩa nhân sinh và xã hội sâu sắc

-       Kết cấu xây dựng theo 3 sự kiện cơ bản: Gặp gỡ - Tai biên – Đoàn tụ

-       Trong truyện sẽ có lời của nhân vật (lời trực tiếp) và lời tác giả (lời gián tiếp). Truyện thơ Nôm thường sử dụng ngôn ngữ gián tiếp

Ví dụ: Truyện Kiều _Nguyễn Du

Tác giả: Nguyễn Du

– Tên tự: Tố Như, hiệu là Thanh Hiên

– Ông được người đời kính trọng tôn là “Đại thi hào dân tộc”

– Tác phẩm Truyện Kiều được coi là một trong những tượng đài thơ ca trong nền văn học trung đại Việt Nam.

a. Tình hình xã hội chung

Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì lịch sử đầy những biến động dữ dội:

– Mầm mống của cuộc nội chiến phong kiến đã xuất hiện, chế độ phong kiến lúc này dần rơi vào khủng hoảng sâu sắc

– Chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực dẫn đến Lê – Trịnh suy tàn. 

– Phong trào nông dân thống trị, điển hình là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã đánh đổ các tập đoàn phong kiến và dọn sạch toàn bộ hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh. 

– Nhà Tây Sơn sụp đổ sau 24 năm tồn tại, kế vị là nhà Nguyễn lên nắm quyền.

=> Tất cả những biến động xã hội đó đã ảnh hưởng đến cuộc đời và hình thành lên con người của Nguyễn Du sau này

b. Tiểu sử

Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều đời làm quan và có truyền thống hiếu học:

– Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm quan đến chức Đại Tư đồ, tức tể tướng trong 15 năm.

– Anh trai cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khản của Nguyễn Du cũng làm quan đến chức Tham Tụng (ngang với Tể Tướng)

– Nguyễn Du sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long, nơi có kinh tế phát triển, sầm uất, với nhiều chốn phồn hoa, đô thị: Ngay từ nhỏ, ông đã được tiếp nhận một nền giáo dục tiến bộ, bắt kịp thời đại, đồng thời kế thừa được truyền thống văn hóa hiếu học của gia đình.

Nguyễn Du có một tuổi thơ không mấy êm ả mà phải trải qua nhiều những thăng trầm, thiếu thốn, mất mát:

– Năm 8 tuổi, cha ông đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong 

– Năm 10 tuổi ông mồ côi cha

– Năm 13 tuổi Nguyễn Du mồ côi mẹ nên phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản

Tuy xuất thân ở tầng lớp quý tộc, song do những biến động dữ dội của lịch sử, gia đình ông cũng sớm rơi vào sa sút:

– Ông phải phiêu bạt suốt 10 năm nơi đất Bắc (10 năm gió bụi), rồi về ở ẩn tại Hà Tĩnh. Lúc bấy giờ triều Lê – Trịnh đã sụp đổ, nhà Tây Sơn lên ngôi. Đây là khoảng thời gian cuộc sống của  ông lâm vào cảnh nghèo đói, túng bấn và tủi nhục quanh năm

– Năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du đã bất đắc dĩ gia nhập tầng lớp quan chức và giữ nhiều trọng trách quan trọng trong triều đình. 

– năm 1820, Nguyễn Du qua đời tại Huế

=> Cuộc đời Nguyễn Du tuy phải chịu nhiều thiệt thòi, trải qua bao thăng trầm, biến động. Song, chính những trải nghiệm ấy đã góp phần giúp ông tạo nên những tác phẩm nổi tiếng và có giá trị sâu sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam.

c. Sự nghiệp sáng tác

Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Du đã có rất nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực lịch sử và cuộc sống con người trong xã hội phong kiến. Các tác phẩm được viết bằng cả chữ Hán có thể kể đến như: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.

Ngoài các tác phẩm tiếng Hán, Nguyễn Du cũng sở hữu các tác phẩm thơ Nôm có giá trị như: Đoạn trường tân thanh; Văn chiêu hồn; Truyện Kiều

c. Phong cách nghệ thuật 

Nguyễn Du là một nhà thờ uyên bác, nắm vững kiến thức của nhiều thể thơ của Trung Quốc như: ngũ ngôn cổ thi, thất ngôn luật, ca, hành,…Vì vậy nên ở thể thơ nào, Nguyễn Du cũng có tác phẩm xuất sắc. 

Từ nền tảng xuất thân và kiến thức văn học dồi dào mà các tác phẩm thơ Nguyễn Du luôn mang thanh âm và màu sắc của sự sống, nổi bật trên nền bức tranh hiện thực đa dạng. Không những thế, qua các tác phẩm thơ, Nguyễn Du còn đem đến vẻ đẹp của tình yêu thương dạt dào và sự căm phẫn về nội xã hội thối nát. Đây là nét đặc sắc và cũng điểm tích cực nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán cho đến Truyện Kiều đều ẩn chứa một sức sống kỳ lạ, mang giá trị nhân văn sâu sắc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác Truyện Kiều

– Theo nhiều giả thuyết ghi lại, Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” sau chuyến đi sứ Trung Quốc. Tuy nhiên lại có thuyết cho rằng, ông viết “Truyện Kiều” trước khi đi sang Trung Quốc, khoảng cuối thời Lê đầu thời kỳ Tây Sơn. Trong đó, giả thuyết sau được biết đến rộng rãi hơn. Cho đến ngày nay, Truyện Kiều đã được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi như một kiệt tác thơ ca trung đại.

– “Truyện Kiều” là được lấy cảm hứng từ bộ truyện văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (một tác giả Trung Quốc). Bản gốc của tác phẩm lấy bối cảnh Trung Quốc từ năm 1521 đến năm 1567 – thời vua Gia Tĩnh Đế đời nhà Minh cai trị. Vì vậy nên một số nhân vật trong tác phẩm như tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Vương Thúy Kiều, Từ Hải đều là những nhân vật có thật trong lịch sử.

– Bản in khắc đầu tiên của “Truyện Kiều” ra đời vào năm 1920, có nhan đề chính thức là “Đoạn trường tân thanh”, dịch là “tiếng kêu mới về nỗi đau lòng đứt ruột”.

– Truyện xoay quanh diễn biến cuộc đời của Thúy Kiều. Từ một cô gái xinh xắn nết na, tài sắc vẹn toàn, nàng phải bán mình để cứu cha và em trai. Không may nàng Kiều gặp phải Sở khanh và bị bán rồi ép làm kỹ nữ. Đây cũng là biến cố khiến cuộc đời cô bước sang một trang mới. 

b. Thể loại của Truyện Kiều

“Truyện Kiều” là tác phẩm truyện thơ Nôm, được viết theo thể thơ lục bát, bao gồm 3254 câu thơ kể về cuộc đời 15 năm đầy thăng trầm của nhân vật chính Thúy Kiều. Một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, số phận bị các thế lực phong kiến đưa đẩy và chà đạp

II. Tóm tắt Truyện Kiều của Nguyễn Du

Truyện Kiều xoay quanh diễn biến cuộc đời thăng trầm của nhân vật Vương Thúy Kiều – một người con gái có vẻ đẹp vẹn toàn từ ngoại hình đến tri thức.

Phần thứ nhất – Gặp gỡ và đính ước

    Thúy Kiều là con gái lớn trong một gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Ngoài Kiều, gia đình họ Vương còn có một cô con gái là Thúy Vân và con trai là Vương Quan. Thúy Kiều sinh ra vốn đã sinh đẹp thông minh, lớn lên, nàng nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong một buổi du xuân vào tiết thanh minh tháng ba, Kiều gặp Kim Trọng. Kiều đã bị thu hút bởi vẻ hào hoa, phong nhã của Kim Trọng. Từ đó, cặp đôi nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Họ chủ động thề nguyện và đính ước nguyện với nhau.

Phần thứ hai – Gia biến và lưu lạc

    Sau ngày đính ước, Kim Trọng phải về Liêu Dương chịu tang chú, cùng thời điểm này gia đình Kiều gặp tai họa do thằng bán tơ vu oan. Trước hoàn cảnh đó, Kiều phải dứt tình với Kim Trọng để bán mình chuộc cha. Trao duyên cho Thúy Vân xong, nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bị lừa bán qua lại bởi bọn trùm lầu xanh. 

Đau khổ khi biết mình bị lừa và đưa vào lầu xanh, Kiều tự tử nhưng không thành. Sau đấy còn bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh và ép phải tiếp khách làng chơi. Rồi nàng được Thúc Sinh chuộc ra làm vợ lẽ nhưng bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen và hành hạ, bắt hầu đàn, hầu rượu. Vì quá khổ cực, Kiều đã bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, Kiều lại vào lầu xanh lần thứ hai. 

Lần này Kiều gặp Từ Hải – người anh hùng trí dũng song toàn, chuộc ra và giúp nàng báo ân báo oán. Chẳng bao lâu, do bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến mà Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều bị ép gả cho một tên Thổ quan. Quá tủi nhục, Kiều quyết định tự vẫn ở sông Tiền Đường nhưng được sư Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai nàng sống nương nhờ cửa Phật.

Phần thứ ba – Đoàn tụ

    Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã tìm lại Thúy Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm được nhau và đoàn tụ với gia đình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét