Thằng Tactuyf hay là tên giả đạo đức _ Hài kịch Molie

 Hà kịch Tactuyf của Môlier là một vô kịch gặp phải sóng gió nhiều nhất của ông vì nó ra đời từ năm 1961, bị cấm sau vài buổi diễn, đến 1607 lại xuất hiện dưới một nhan đề khác Thằng giả đạo đức, và lại bị cấm ngay sau một buổi diễn, cho mãi đến năm 1669 tuổi chính thức giành được quyền sống đàng hoàng trên sân khấu và được in ra thành sách, sau bao nhiêu công phu phấn đấu kiên trì của tác giả.

 

 

Và diễu năm 1664, chỉ có ba hồi kịch bản thế nào, hiện nay không còn dấu vết gì. Vở diễn năm 1067 ngày 2 tháng 8 đổi tên, và sửa lại thành năm hồi, hiện nay cũng không ai còn giữ được kịch bản, chỉ thấy được phân tích từng lớp một trong một cuốn sách nhỏ nhan đề là "Thư nói về vở Thằng giả đạo đức" của một khán giả (nhưng chắc là có những gợi ý của Môlier), in vào cuối tháng 8 năm đó. Duy chỉ có vở diễn năm 1669 (ngày 5 tháng 2), lấy lại nhau đề cũ: Thằng Tactuyf và thêm phụ để hay là Thàng giả đạo đức, là kịch bản còn lưu truyền đến ngày nay. Vì vậy, đứng về quan điểm lịch sử văn học, ta chỉ có thể căn cứ vào kịch bản 1609, và đặt vở kịch vào niên hiệu đó, sau những vở Anh chàng ghét đời (1666), Lão hà tiện (1668), v.v... và trước vở Trưởng giả học làm sang (1670).

 

Vở  Tactuyf thứ nhất, ba hồi, chưa hề được công diễn Lầu đầu tiên, là được diễu cho vua Nem, ở Vecxai ngày 12 tháng 3 năm 1661, trong cuộc khánh tiết kéo dài từ ngày 7 đến ngày 13 tháng đó, do Vua Luy XIV chủ trì, cho các ông hoàng bà chúa và tất cả các đại lãnh chúa trong Triều đình được vui chơi. Nhà vua và Hoàng hậu rất tán thưởng vở kịch đó song những kẻ thù của Moher lấy làm ghen tức và vận động được Bè đẳng sùng tín rất có thể lực hồi đó chống lại vở kịch, nhất là họ được sự đồng tình của Hoàng thái hậu Au dÖtrish; bà này đương có khuynh hướng mộ đạo, và hôm xem diễn vở, đã lấy làm phật ý vì vở kịch đưa lên sân khấu nhân vật chính là một kẻ giả đạo đức, giả sùng tín, cuối cùng bị vạch mặt là một tên đại gian ác. Ông tổng giám mục địa phận Pari, là ông đơ Pêrêliks, cầm đầu bọn phản đối và đến nói với Nhà vua về vở đó. Vua Luy XIV, nặc đầu muốn che chủ Molier, nhưng đứng trước sự thúc ép liên tiếp của những thế lực hữu kết khá lớn, cuối cùng phải bảo Môlier dùng nê trên tác họn sủng tín và ra lệnh cấm công diễn vở kịch

 

Tuy vậy vở kịch vẫn được phép đem đọc trong những cuộc hội họp riêng và không bị cấm diễn  từ trong các dinh thự của lãnh chúa. Do đó, vở kịch còn đen diễn mấy buổi nữa; ngày 25 tháng 9 năm 1601 ở Cung điệu Đức ông ngự đệ, để thiết dãi Vua, Hoàng hậu và tất cả Triều đình; ngày 29 tháng 11 năm đó, diễu đủ năm hồi, và ngày 8 tháng 11 năm sau 1965, ở cung điện Roulxi, gầu Pari, cho Hoàng Thâu Cầuede xem, và ngày 3 tháng 11 năm 1068 ở cung điện Săngty.

 

Trong thời gian từ khi vở kịch bị cấm cho đến năm 1007, Môlier không ngừng phiu dấu cho vở kịch của mình thống được những kẻ thù. Một xuất, ông gửi cho Nhà vua một loài Biểu thủ nhất vào cuối tháng 8 - 1664. Một luật, ông tranh thủ sự đồng tình của những vị có uy tín trong giáo hội, như đại sứ của giáo hoàng ở Pari là Hồng y giáo chủ sử ông này cho phép đọc vở kịch đó trước mặt ông, ngày 4 - 8 - 64 và ban lời tán thành vở kịch. Một mặt khác nữa, và dây là điều quan trọng cầu bản, Môlier phấn đấu bằng cách liên tiếp sáng tác và hiểu diễn những vở kịch chiếu đấu chống những thói tục xấu xa trong giới quý tộc, chống sự giả dối lừa lọc trong cung đình và trong giới xã giao thượng lưu, như Đông Juàng (1665) đủ kích manh không kém gì Tuctuy và Anh chàng ghét đời (1660), vở này được coi là tuyệt tác đầu tiên của Môlier (vì vậy Tactuyf mãi đến 1609 mới được chính thức ra đời)... Những vở kịch đó và hoạt động sâu khấu không một xuôi của Molier tranh thủ được sự ủng hộ ngày càng rộng lùi của quần chúng nhân dầu, của những vị hoàng thân sáng suốt, công minh và có quyền thế và củng cố được sự ưu ái của nhà vua, vốn vẫn muốn bênh vực ông".

 

 

 

Ngày 5 tháng 8 năm 1667, trong khi nhà vua còu ngự giá thân chỉnh 3 Flugdr (đông bắc nước Pháp), tour đã được nhà vua cho phép (theo bài Biểu thứ hai của ông gửi cho nhà vua ở mặt trận sau đó, thì có lẽ trước khi lên đường ra trận, nhà vua có cho phép mồm, lời lẽ khá mơ hồ), Molier cho công diễn lần đầu tiên vở Tactuyf năm hồi ở khu Hoàng - cung. Ngay hôm sau, ông Lancauhông, chánh án thứ nhất của Tôi cao Pháp việu Pan, ra lệnh cấm vở kịch, Môlier bèn kháng nghị bằng bài biểu thứ hai gửi cho nhà vua. Nhà vua chỉ trả lời bằng những hứa hẹn đầy hy vọng Ngày 11 – 8, tổng giám mục Pair, đơ Perefikx,lại ra huấn dụ cấm "diễn dọc hoặc nghệ vở kịch nói trên ...  và nếu ai vi phạm, sẽ bị rút giấy phép thông công."

 

Một thời gian sau tuần lễ (từ 6 - 8 đến 25 - 9 na đó) rap Kích Hoàng - chua đóng của và Môlier cháu sâu đi Ô Mai nghỉ dưỡng sức với bạn là Buil (có người cho là chính Bur này đã viết, trước mắt Môlier, cuốn Thư nói về "Thằng giả đạo đức"), vui vầy yếu ẩm với các bạn hữu là Boalô và La Făngten thường hay tôi thành công sau đó ông lại trở về Pari và hoạt động hăng hái. Ông sáng tác và biểu diễu lưu tiếp một loạt những vở kịch xuất sắc Amphitryôn,Jord Dăngđanh, và Lão hà tiện, trong một năm 1608.

 

Sang đầu năm 1969, ngày 6 tháng 2, cuối cùng Môlier đạt được thắng lợi vẻ vang, là được phép công diễn vở kịch lấy lại nhau để là Thằng Tactuyt và tháng 3 năm đó kịch bầu được in thành sách lưu hành trong công chúng Tháng lợi rất lớn, vì từ 5 - 2 đến 9-4, vở kịch được công diễu 27 buổi liệu, không hở 5 buổi đi diễn tư trong các cung điệu. Ngày 5 5, tái diễn, và trong năm đó, diễu thêm được 22 buổi nữa, tổng chỉ 50 buổi công diễu trong năm đó, với thu hoạch rất lớn. Năm 1070, diễn 18 buổi, 1071, diễn 9 buồn và 5 buổi năm 1672. Tổng cộng, trước khi Môlier chết (1673), vở kịch được công diễu 77 buổi, không kể những buổi diễn từ trong cung đình và các dinh thự đại lãnh chúa. Từ 1680 đến 1932, vở Tactuyf được công diễu 2.250 buổi ở rạp Hp viện Pháp (Conédie - Francaise). Cho đến ngày nay, vỡ Tactuyf vẫn là vở kịch cổ điều được diễn nhiều nhất, qua các thời đại khác nhau, các chế độ khác nhau, ở nước Pháp, và được diễn rất nhiều với tiếng tăm vang dội rất lâu ở khắp các nước châu Âu, và trên toàn thế giới.

 

 

Nội dung vở kịch như thế nào? Vì lẽ gì mà nó vấp phải sự phản đối kịch liệt, da đầng hầm sáu năm trời của những kẻ thù có thể lực đều thế, và những kẻ thù đó là thế nào, na chính nhà vua chuyên chế Luy XIV cũng phải kiêng dè? Tại sao, năm 1607, Môlier đã tưởng có thể đương đầu với họ? Và tại sao đều 1663, Mohier lại tháng được họ một cách rực rõ và quyết định? Chúng ta sẽ giải đáp những câu hỏi đó, bằng những nét chính, sơ lược theo khuôn khổ một bài Tiểu dẫn

 

Ngay từ khi sáng lập Trứ danh kịch đoàn (1643), Môlier đã vấp phải một phong trào tư tưởng tôn giáo gây nên những thất bại đầu tiên của ông. Từ năm 1627, ở nước Pháp, đã thấy thành lập một liên minh rộng rãi những người tu hành và cả những người thế tục (tu tại gia), một số có quyền thế cao, mục đích là nhóm lại ngọn lửa súng tíu, giám sát phong tục (khi cầu, bằng do thận), làm sao cho đời sống của các thành viêu và của toàn thể xã hội được theo đúng giáo lý của đạo cơ đốc. Liên mình đó lấy tên là Giáo đoàn thánh thể (Compagnie du saint Sacrement). Chả bao lâu, giáo đoàn đó và những nhóm hình tinh cùng một tôi chỉ, được công chúng gọi là Bè dảng sùng tin (Cabale des dévots) Một trong những đối tượng của Bè đẳng đó, là kịch trường, vì đối với họ, cũng như đối với chính Giáo hội thế kỷ XVII, kịch trưởng là một trường học thường luận bại lý, Vua Luy XIV, mới lên ngôi, còn trẻ tuổi, chả sùng tíu gì mấy, chỉ thích hoan lạc, lại chăm lo bảo vệ uy quyền của ngôi vua, nên chống lại họ và tiếp tục cuộc chiến đấu của Mazaranh, tể tưởng tiểu triều, đã toàn giải tán Bè đảng đó năm 1600. Nhưng bản thân Môlier vấp phải thế lực của họ nhiều phen. Bè đảng đó được mạnh thêm do sự ủng hộ của một phe đảng rất mạnh, phe dẳng của Hoàng thái hậu Au đ'Ôtrish, còn có nhiều thế lực trong Triền. Môlier chống lại họ bằng cách dựa vào kịch của mình, ngay từ vở kịch Trường học làm vợ (1963), những nhân vật súng tím mà ông châm biểu đủ kích thẳng tay. Đấu vô Táctuyf, ông cũng đủ kích bọn sùng tín giả hiệu như Táctuyf tên vô lại mượn áo sùng tín để lừa bịp kẻ khờ dại, và chế giễu bon sung túi khờ dại, mà quắng, như Oging, là Peruel. Rất có thể là trong kịch bản 100%, sự đả kích thẳng cánh hơn, nhưng qua quá trình đấu tranh từ 61 đến 69, Môlier cũng đã phải sửa chữa lại kịch bia nhiều lầu theo gợi ý của những người có quyền thế đã dầu cho mình, để cho những mũi nhọn cho giấu bớt đi, gọi là công nhượng bộ đôi chút, cho thắng lợi chỗ nàng hưu. Do đó, từ biểu lộ điều hưu 69, vô kịch sửa chưa nhiêu lâu, nêu về tư tưởng nội dung cũng như về nghệ thuật Xây dựng tron bu 1009, mà chúng ta có hiện nay, không câu hoàn toàn là tư tưởng và nghệ thuật lúc dấu của Molier

 

Khi tất cả các bẻ đồng kia xúm lại chống vở kịch, thì ta cũng hiểu là vua Luy XIV cũng phải e dè, không dân đường đầu và họ (nhất là ba người cầu đều là Lannoanhdng, đơ Pérofily và Ấn đÖtrsh, thì người thứ hai là thái phó cũ của nhà vua, và chu đÔurish là ae nhà vua, đã từng chấp chính khi vua còn nhỏ tuổi. Tuy vậy ông vẫn tiếp tục ngấm ngầm truy bức Bề dàng đó, và đã suốt giải tín được hạ, năm 1960, là năm Hoàng thái hận bảng là Chính lúc đủ là lúc Molier tưởng nhà giành được thời cơ thông thủ, nên năm sau, 1067. ông thử đưa công diễn vở kịch liêu thứ nhất: nhưng Lanoxinhdng và đủ Tiêfix của đó và chưa hạ khí giới. Sau hai dinh sau, Bè dẳng sùng tín chết hầu, các thế lực chống và kịch tiểu nã, và vở kịch được tự do công điều.

 

Ý nghĩa và tầm quan trọng của vở kịch "Tactuyf, theo quan điểm lịch sử, thì như chúng ta đã thấy ở trên. Nhưng qua thời gian vở kịch đó còn sống bền bi và khỏe mạnh cho đều ngày nay, thì ý nghĩa của nó và tầm quan trọng của Hu có chuyển biến, và mang một tính cách phổ biến hơn, có một giá trị vĩnh cửu hơn: trong vở này cũng như trong toàn bộ . vừa nghiệp của ông. Môker dũng cảm vạch xuất những kẻ giàu ốc mưu toan làm hại những người thiện lương và phá loi vi hạnh phúc của các gia đình cháu chính, dũng cảm chiếu tranh chống những thế lực hắc ám muốn kìm hãm bước tiểu của xã hội đương vùng lên để thoát khỏi sự ngột ngạt của đội sống trung cổ.

(1) Nếu alc ở đây là năm 1661, trước và Tactuy, vua Luy XV nhận làm cha đỡ đầu cho con trai đầu lòng của Molier, và năm sau, bui cho đoàn kịch của Molier danh hiệu là "Ban kịch của Nhà vua.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét