Tập thơ "Việt Bắc"_ Tố Hữu trong nền thơ cách mạng Việt Nam.

 

*Tác giả Tố Hữu:

– Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ra ở Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế. Cha Tố Hữu là một nhà nho rất yêu thơ; mẹ cũng thuộc nhiều dân ca xứ Huế. Gia đình và quê hương đã góp phần vào việc hình thành và nuôi dưỡng hồn thơ Tố Hữu.

– Tố Hữu tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm và nhanh chóng trưởng thành trên con đường tranh đấu. Năm 1945, Tố Hữu tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở kinh đô Huế. Sau Cách mạng, nhà thơ liên tục giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Năm 1996, Tố Hữu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

*Tập thơ Việt Bắc:

– Việt Bắc (1946 – 1954) được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Tập thơ đã tái hiện vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong chiến đấu: những anh vệ quốc quân, anh bộ đội gần gũi, bình dị mà hào hùng; những người phụ nữ đảm đang, dũng cảm; những bà mẹ Việt Nam thương con, yêu nước… Tác giả cũng khắc hoạ thành công hình tượng Bác Hồ… Việt Bắc được đánh giá là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp. Giàu khuynh hướng sử thi, đậm đà tính dân tộc, Việt Bắc không chỉ là đỉnh cao trên con đường thơ Tố Hữu mà còn là thành lớn của nền thơ cách mạng.

– Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ dời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Cuộc chia tay lịch sử đã khơi nguồn cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.

– Trong lần in đầu tiên năm 1954, tập thơ Việt Bắc gồm 24 bài với bài đầu tiên là Cá nước, sáng tác năm 1947, và kết thúc với bài Lại về, sáng tác năm 1954. Tập thơ cũng có 6 bài thơ dịch, bao gồm thơ của Louis Aragon (Pháp), Konstantin Mikhailovich Simonov (Nga), thơ kháng chiến của Nam Tư và thơ tuyệt mệnh của ông bà Rosenberg (Mỹ).

– Trong những lần in sau đó, tập thơ Việt Bắc được bổ sung thêm 4 bài Đêm xanh, Lạnh lạt, Tình khoai sắn, Trường tôi, sáng tác vào năm 1946.

– Các bài thơ trong thi tập sử dụng nhiều thể thơ như thơ tự do, thơ ngũ ngôn, đặc biệt là các thể thơ dân tộc như thơ lục bát và thơ xen song thất lục bát.

– Bao trùm tác phẩm là cảm hứng ngợi ca nghĩa tình cách mạng thủy chung, son sắt giữa đồng bào chiến khu và cán bộ kháng chiến, quân với dân, miền ngược với miền xuôi… Qua đó, nhà thơ khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước anh dũng, kiên cường mà ân nghĩa, thuỷ chung.

– Việt Bắc được kết câu theo lối đối – đáp giữa hai nhân vật trữ tình ta và mình – vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca. Người ở lại là đồng bào chiến khu Việt Bắc, người ra đi là những cán bộ kháng chiến từng gắn bó với quê hương cách mạng suốt mười mấy năm trời. Hình thức này đã tạo nên sự hô ứng đồng vọng khiến cảm xúc như được nhân lên, da diết, khắc khoải hơn. Những ân tình cách mạng được thể hiện như tâm trạng nhớ thương, lưu luyến, gắn bó thuỷ chung trong tình yêu đôi lứa. Song “đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà đối thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong” (Nguyễn Văn Hạnh).

– Kiểu kết cấu độc đáo ấy và thể thơ lục bát khiến bản hùng ca của thời kháng chiến vang lên với âm điệu ngọt ngào, tha thiết của một khúc tình ca.

Đặc điểm nghệ thuật tập thơ Việt Bắc:

Là tập hùng ca của kháng chiến toàn dân tám năm ròng rã chống bọn xâm lăng (theo Đặng Thai Mai), tập thơ Việt Bắc phản ánh đầy đủ con đường chiến đấu gian lao và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn, hình ảnh về cuộc kháng chiến. Đó là tiếng hát mở đường (bài Phá đường); tiếng hò kéo pháo lên chiến dịch (bài Voi); nỗi lòng bà mẹ nhớ con (bài Bầm ơi); niềm thao thức nơi anh bộ đội nhớ mẹ ở làng quê (bài Bà bủ); chiến thắng Việt Bắc (bài Cá nước); nguồn sáng nơi căn nhà của cụ Hồ (bài Sáng tháng năm); bước chân người chiến sĩ vào trận tuyến nơi núi rừng Tây Bắc (bài Lên Tây Bắc); niềm hân hoan trước chiến công lừng lẫy tại Điện Biên Phủ (bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên); niềm vui chiến thắng và hòa bình trên bước đường đi tới (bài Ta đi tới); nỗi nhớ nhung và lời hẹn ước giã từ thủ đô gió ngàn (bài Việt Bắc) v.v.

Một trong những điểm nổi bật của tập thơ Việt Bắc là sự khắc họa chân thực những nhân vật văn học đại diện cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam kháng chiến, những con người mới của thời đại mới, mà nổi bật trong đó là hình ảnh Hồ Chí Minh hiện thân cho tinh hoa và trí tuệ của dân tộc. Tuy vậy, tập thơ vẫn còn thiếu những con người cá thể, cụ thể, những tình cảm riêng tư của cái “tôi” trữ tình. Về mặt nghệ thuật, tuy được đánh giá là bước trưởng thành quan trọng của thơ Tố Hữu, là một thành tựu xuất sắc của thơ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp, yếu tố cách tân trong tập thơ cũng chưa được nhìn thấy.

*Đóng góp của tập thơ “Việt Bắc” trong cách mạng Việt Nam:

Trong nền thơ kháng chiến tập thơ Việt Bắc là thành công lớn nhất, tiêu biểu nhất. "Chỉ có nhà thơ lớn mới có thể hiểu thấu chất thơ của thời đại mình vì chất thơ của mọi thời đại trước đó bao giờ cũng dễ hiểu hơn” ( H. Hainơ). Tố Hữu là nhà thơ lớn trước hết theo ý nghĩa ấy. Vậy điều gì đã khiến nhà thơ có được sự thành công. Đó là: Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh những tinh hoa của thơ ca truyền thống, để góp phần diễn tả một cách sinh động những tư tưởng, tình cảm mới của thời đại. Những sự kiện lịch sử, cảm xúc rất mới đã được ghi lại trong tập thơ Việt Bắc với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên, chứa đựng lối nói, lối nghĩ của quần chúng

Ngòi bút của Tố Hữu tiến lên nối tiếp truyền thống của các nhà thi hào cổ điển ở bút pháp hết sức tinh tế, chất trữ tình tha thiết, khêu gợi nhiều hơn diễn tả, chữ đúc lại với nhau. Là nhà thơ tiếp thu những tinh hoa của các thế hệ nhà thơ nổi tiếng từ trước 1945 như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư...và thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến như Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung..Ông là người có tư cách cùng lúc đại diện cho cả hai thế hệ nhà thơ trong sự gắn bó những gì ưu tú nhất.

Sự kế tục dòng thơ cách mạng của các chiến sĩ cộng sản, nhưng đã được đổi mới trên cơ sở vận dụng những thành tựu hiện đại hoá thơ ca đương thời, đem đến cho văn học cách mạng một tiếng thơ mới mẻ. Âm hưởng hùng tráng, trong không khí lạc quan hừng hực đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu câu thơ đều thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó với non sông đất nước và lòng căm thù giặc. Thơ giàu chất liệu hiện thực, cuộc sống đời thường tràn vào thơ, và làm cho lời thơ gần gũi với tiếng nói hàng ngày, ở giọng thơ tâm tình, ngôn ngữ giản dị của bản thân hiện thực. Những con người thật đi vào thơ ông như những nguyên mẫu nhưng vẫn lung linh những nét sáng tạo của riêng Tố Hữu. Nhà thơ học cách viết lấy người thực, việc thực làm hạt nhân tìm tứ thơ trong đời sống của nhân dân.

Tố Hữu sử dụng những vần thơ 5 tiếng, 7 tiếng, các loại thơ tự do, cùng với việc sử dụng vần liên tục... Tố Hữu đã nói: "Ở họ, Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, tôi đã học những sinh lực mới, những hình thức mới để biểu hiện, những hình thức diễn đạt mới, một ngôn ngữ trực tiếp hơn, thơ hơn, nhân tình hơn, uyển chuyển hơn". Nhưng cái khác là ở Tố Hữu còn có những nét mạnh dạn, những điều đặc sắc mà người khác không thấy. Tác giả nhìn thẳng vào thực tế, để tâm hồn mình rung cảm sâu sắc với thực tế, rồi nói lên cảm xúc ấy bằng những lời tự nhiên, không kiểu cách, đầy sức mạnh của sự thật để diễn tả đúng nguyện vọng, tâm tình của nhân dân. Tố Hữu đã thực sự nắm bắt được chất thơ của thời đại và điều quan trọng đã thể hiện được nó bằng nghệ thuật, thông qua sự sáng tạo riêng mình. Chất thơ của hiện thực kháng chiến, Tố Hữu đã lĩnh hội được sớm nhất, nói lên được một cách giản dị và thấm thía nhất. Xuân Diệu đã nói cảm tưởng của mình khi đọc bài thơ Cả nước của Tố Hữu: “Tôi còn nhớ cái cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc bài thơ Cả nước trong số 1 này, một chất gì đó đã sinh ra, cái chất đó chỉ có thể sinh ra được do tâm hồn người:

"Tôi ở Vĩnh Yên lên

Anh trên Sơn Cốt xuống

Gặp nhau lưng đèo Nhe

Bóng tre trùm mát rượi".

 Đó là chân thành, chân thành. Đó là Tố Hữu, Tố Hữu. Chúng tôi, một số thi sĩ đã viết thơ từ trước Cách mạng Tháng Tám, không phải là chúng tôi không biết sào nấu cho thơm điếc mũi lên, nhưng chúng tôi đứng lặng trước cái chất tình người này:

"Một thoáng lặng nhìn nhau

 Mắt đã tìm hỏi chuyện

 Đôi bộ quần áo nâu

 Đã âm thầm thương mến..".

Tố Hữu còn tìm đến một tâm thế trữ tình mới hướng vào khẳng định, ngợi ca nhân vật quần chúng bằng cách sáng tạo kiểu trữ tình nhập vai hoặc để cái tôi” nhà thơ lùi lại phía sau làm nổi bật hình ảnh quần chúng".

Vì vậy, Tố Hữu là nhà thơ thời sự thành công nhất trong nền thơ Cách mạng, có sự khởi đầu tuyệt đẹp từ sau 1945. Chuyện đời vào thơ với tất cả vẻ tươi tắn, vừa đậm tính dân tộc vừa hiện đại đã truyền cảm trực tiếp vào hàng triệu trái tim. Điều đó được ghi nhận trong tập thơ Việt Bắc như một bước phát triển mới sau Từ ấy.

*Đóng góp của tập thơ “Việt Bắc” trong hành trình thơ Tố Hữu

Tập thơ Việt Bắc (1946-1954) thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thơ Tổ Hữu theo hướng dân tộc và đại chúng phù hợp với phương châm của nền văn nghệ mới như được ghi trong Đề cương về văn hoá Việt Nam- 1943. Nếu như ở Từ ấy nổi bật và kết tinh giá trị của tập thơ là hình tượng cái "tôi" trữ tình tác giả - người thanh niên cộng sản, thì đến Việt Bắc là bước chuyển từ cái "tôi" ; cái "ta" chung của dân tộc, của giai cấp. Là bản hợp ca của một sang dân tộc anh hùng không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, trước bất cứ khó khăn, gian khổ nào để dành cho được độc lập, tự do. Bản hợp ca đó được xây dựng trên một nền trữ tình phong phú, nổi bật là hình tượng quần chúng nhân dân kháng chiến. Có thể nói tập thơ Việt Bắc là hình ảnh, tâm tình, tiếng nói của quần chúng kháng chiến. Nhà thơ tập trung thể hiện hình ảnh những con người đại diện cho quần chúng với những chi tiết chân thực mà bình dị của đời sống, trong mọi hoạt động kháng chiến với tâm tình, ý nghĩ và tiếng nói của họ. Đó là anh Vệ quốc quân đã làm nên chiến thắng Việt Bắc vang dội:

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!

( Cả nước, 1947,)

Là chị nông dân con mọn vượt lên những gian khổ, thiếu thốn, hăng hái tham gia tiêu thổ kháng chiến," phá đường" chặn bước đi của giặc:

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng đi phá đường quan

(Phá đường, 1948)

Là những người mẹ nông dân chất phác gắn bó tình nghĩa với kháng chiến, hòa làm một tình thương con với lòng yêu nước:

Bà bủ không ngủ, bà nằm

Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù

Ngoài phên gió núi ù ù

Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về...

( Bà bủ, 1948)

Là em bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê tháng mười dưới làn đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với quê hương đất nước:

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng.

(Lượm, 1949)

Trong Việt Bắc, cái "tôi” trữ tình nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật quần chúng hoặc có hiện diện cũng chỉ là đường viền làm nổi bật hình ảnh những con người quần chúng. Những con người bình thường, cụ thể đó bỗng được nâng lên thành biểu tượng của Nhân dân, của Tổ quốc. Lịch sử thơ ca Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại, có lẽ chưa đâu có những hình ảnh sinh động và thấm thía yêu thương như thế về những con người bình thường mà làm nên lịch sử.

Tình cảm bao trùm và sâu đậm nhất trong tập thơ Việt Bắc là lòng yêu quê hương đất nước. Tình cảm ấy được biểu hiện phong phú, sâu sắc trong nhiều trạng thái đa dạng. Đó là tình nghĩa gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến, là mối tình gắn bó thân thiết giữa người miền xuôi với người miền ngược, là lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc, và trên hết là lòng kính yêu của nhân dân với lãnh tụ... Tất cả được thể hiện trong một mối tình "cá nước" thắm thiết tình nghĩa, cùng hòa trong niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng.

Thiên nhiên đất nước hiện lên với nhiều cảnh sắc đa dạng, phong phú khi thì" hắt hiu lau xám đậm đà lòng son", khi lại "trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương", khi lại có những cảnh rộn rã, tấp nập trong sinh hoạt kháng chiến của cơ quan, những cảnh hào hùng của từng đoàn dân công, bộ đội đi chiến dịch... tạo nên bức tranh thật sinh động, phong phú.

Kết Luận

Việt Bắc, là chặng đường có vị trí quan trọng trên hành trình thơ Tố Hữu. Đến tập thơ này, cái “tôi” của nhà thơ đã thực sự hoà nhập vào đời sống nhân dân, thấu hiểu và gần gũi với cuộc đời, tâm tình, ước nguyện của quần chúng kháng chiến. Thơ Tố Hữu đã bắt được vào nguồn mạch sâu xa và bền bỉ của truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời thể hiện được lý tưởng cách mạng, tinh thần của thời đại trong việc làm, hành động, ý thức và tinh thần của đông đảo quần chúng. Cái "tôi” ấy hầu như mất hẳn cái riêng để trở thành cái "ta” của Đảng, của nhân dân và của dân tộc.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét