PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG

 PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG

Bùi Công Thuấn

 

Mỗi nhà văn có một hoàn cảnh sống, có những tâm tư ước vọng riêng, một tâm tính riêng. Tất cả những yếu tố ấy chi phối và làm nên phong cách. Nhưng yếu tố trực tiếp nhất chi phối phong cách, bút pháp chính là quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Với Nam Cao, phải chất vật khó khăn lắm nhà văn mới nhận ra được sự thất này "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp làm than vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Điển. Điển chẳng cần đi đau cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điển cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.." (Trăng sáng).

 

 

(...) Nguyễn Khải, đã nhận xét về Nam Cao như sau : "Đó là một nhà văn chân chính, phải sống, phải làm việc như con người ấy". Còn Phong Lê đã nhận xét về những sáng tác của Nam Cao "Gần như toàn bộ những gì của Nam Cao sưu tầm được đều có thể in, có thể đọc, trong đó một tỷ lệ lớn những trang hay, tức là những trang có thể đọc đi đọc lại nhiều lần, mà không gây cảm giác cũ. Phải chăng đó chính là phẩm chất của những gì thật ưu tú, là cái giá trị đã có thể đi dần vào quỹ đạo của những gì thuộc về cổ điển" - Hà Minh Đức cũng khẳng định : Sáng tác của Nam Cao giàu sức khám phá sáng tạo, với phong cách độc đảo" (2)

 

Ý kiến trên của các nhà nghiên cứu đều đã khẳng định điều này là Nam Cao đã thực hiện được đúng tuyên ngôn nghệ thuật của mình, đã để lại cho chúng ta những trang viết giá trị và một phong cách độc đáo, ngày càng tỏ ra có sức hấp dẫn kỳ lạ Phong cách Nam Cao ngày càng hiện lên lưng lừng, không lẫn được, và dưỡng như trở thành một trong những đầu nguồn của những dòng phong cách truyện ngắn sau Cách mạng tháng Tám.

 

Vậy những đặc điểm nào tạo nên phong cách Nam Cao Về mặt ngôn ngữ, Nam Cao thưởng viết những cầu rất ngắn và cộc, dường như không thể rút ngắn hơn. Chẳng hạn:

 

"Chà ! Thích quá ... Giàu bạc vạn ! Hắn ra về hế hả. Bụng hắn không đói nữa. Người hắn không mệt nữa. Ảo tưởng lóa mắt hắn. Hy vọng nâng chân hắn. Mắt hắn sáng ngời, hi hưng Hắn làng càng, mim cưới một minh, mắt long lanh nhìn tương lai rực rỡ, như một thí sinh vừa mới thấy tên mình trùng bảng Hắn đi thoán thoát" (Xem bói).

 

Có thể coi những kiểu câu ngắn, cộc này là một đặc điểm phong cách ngôn ngữ của Nam Cao. Ngay cả khi Nam Cao viết những câu dài, những câu ấy cũng được ngắt vụn ra. Câu ngắn làm cho mạch văn đi nhanh, giọng văn danh lại Đọc Nam Cao ít khi gặp giọng văn mềm mỏng, âu yẻm. Ngay cả lúc diễn tả nỗi đau thương hay cảnh ngọt ngào, câu văn, giọng văn Nam Cao cũng "cộc" như vậy. Chẳng hạn :

 

"Thế là xong. Anh chết rồi đấy nhỉ ? Không lẽ tôi lại vui khi được một cái tin như thế. Nhưng thật tôi cũng không biết có nên buồn không đấy. Có người bảo : "sống khổ đến đâu, cũng còn hơn chết . cái tâm lý chung của người đời như vậy" (Điều văn)

 

Chúng ta tưởng như Nam Cao không có tình cảm, hoặc là mọi thứ tình cảm đều đã khô kiệt, đều bị bóc trần, để chỉ còn lại cái chất suy nghĩ khô khốc của lý trí. Câu văn Nam Cao dường như không chuyển tải tình cảm, không diễn đạt tình cảm, nó có vẻ các và khô gần như bốp chát. Chính những câu văn ngắn này làm nên chất giọng riêng của văn Nam Cao.

 

- Trước hết là cái giọng "nói chan chát như băm, như bố vào mặt người ta". Nam Cao nói tone ra hết, không kiêng nể, cũng chẳng cần giữ gìn ý tứ. Đôi khi ngôn ngữ Nam Cao trở nên tàn nhẫn, khác nghiệt. Nam Cao diễn tả tình yêu : “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi" (Đời thừa). Ông diễn tả tính hiền lành . "Bao giờ Nhì chả dễ bảo như một con chó xiếc" (Ở hiền), diễn tả nỗi đau thương của một người phụ nữ khi tinh nhân chết . "Và khi trông thấy tính nhân, mu ra lên Mụ vật và người, khoe rống như một con chó chưa quen xích (Lang Rận), diễn tả cảnh còn bú mẹ "đem đến cũng chưa được ngủ yên lành, còn bị con quấy rối, lúc khóc, lúc giấy, lúc dạy bà như con chó dạy giề..." (Cưới). Truyện Đón khách là một nụ cười hết sức tàn nhẫn một cách đau thương. Nam Cao nói về cái ác như sau "Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ" (Đời thừa), cái giọng văn "băm bổ" đến tàn nhẫn này của Nam Cao vừa là ngôn ngữ của nhân vật, những con người khốn khổ, vừa là giọng văn của chính tác giả muốn "bam bổ" vào cái tan nhân của xã hội cũ, một xã hội mà "loài người còn kém xa loài vật" con người "khổ như một còn chó vậy" (Nước mắt).

 

Chất giọng Nam Cao, trong khi "nói toạc ra", trong khi "bam bổ". vẫn ham chưa nhưng yếu tố hài, như những cung bậc, sắc điệu của chất giọng, có khi chất hai thể hiện ở trong từ ngữ. Chẳng hạn :

 

"Ngay cải tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột, hay là Ha là Đông là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai" (Đôi móng giò).

 

Chất hài có nhiều trong hình ảnh méo mó của nhân vật. Chất hai còn toát ra từ bản thân câu chuyện mà tác giả kể. Có những cải cười gượng, nói toạc những cái xấu ra để cười (Nhỏ nhen), có cái cười hết sức khỏi hài, tuy Nam Cao tỏ ra rất trang nghiêm khi kể (Cái mặt không chơi được), có cái cưới để lại bài học thú vị (Truyện tỉnh), có cái cười châm biếm, sâu cay, có cái cươi đều (Điếu văn), cười tàn nhẫn (Đón khách), có cái cười sảng khoái vỡ ra như khi đọc truyện tiếu làm (Đôi móng giò) và có cả cái cười "chữa bệnh" nữa. "Nụ cười chính là một vị thuốc tiêu đảm, tẩy độc, lượng huyết và bổ tâm, bổ phế, bổ tì, bổ vị, bổ gan, bổ thận, chẳng cái gì không bổ. Tiên được đấy. Nó cải lão hoàn đồng rất mạnh. Mà không tôn kém một đồng xu nhỏ ! Chỉ cần nhếch mỗi một cái. Dễ dàng hết sức. Vậy thì tội gì mà không cưới. Cứ cưới đi, cưới nhiều đi..." (Cười). Thực ra, cái hai trong giọng điệu Nam Cao chỉ là mất phải, mất nổi mà cái bị đất, cái đau xót, cái cảm uất, cái yêu thương mới là bề sâu trong chất giọng của Nam Cao. Truyện ngắn Nam Cao đem đến cái cười, nhưng đọc xong rồi, đằng sau cái cười là một nỗi xót xa, đau đớn và một sự suy gẫm về cuộc đời cũ. Truyện ngắn trước Cách mạng của Nam Cao chưa có cái cười chiến đấu. Cái cười của Nam Cao chưa chia mũi nhọn tiến công vào kẻ thù (hoặc nếu có thì cũng rất hiếm, chẳng hạn. Nổi truân chuyển của khách mà hồng), cái cười của Nam Cao mang nhiều tính tự trào tuy cười hì hì suốt ngày thật đây, nhưng vẫn buồn..." ( Lang Rận).

 

Có thể nói trong truyện ngắn của Nam Cao, chất giọng chính lớn giọng nói của nông dân Bắc Bộ. Vừa cộc, vừa đẹp chất, bỏ bộ thẳng thừng vừa tính toán nói xuôi cũng được mà ngược lợi cũng nên Chất giọng này đậm nét như trong những truyện viết về người nông dân. Dường như Nam Cao đã đem ngôn ngữ của làng quê Bắc Bộ vào trong truyện của mình một cách tự nhiên nguyên vẹn, cả giọng điều, ngôn từ, tính cách và tư duy. Nhân vật luôn luôn nghĩ đô thị thế này, nghĩ lại thì thế này, dáng nào cũng có lý cả Truyện Một đám cưới là một tiêu biểu cho kiểu ngôn ngữ và giọng điều này. Thực chất thì đám cưới Dân là một đám cưới chạy đó. Có dấu chỉ mặc những áo vài ngày thường nghĩa là một cái quần cộc xăng và dụp những miếng và thật to một cái áo cánh nau bạc phếch và cùng và nhiều chỗ làm, một bên tay cách qua đã xe cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc đi bên cạnh mẹ chồng, chú rẻ đặt đứa em lớn của Dân Còn tháng bé thì ông bố công. Cả bọn đi lùi thủ trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xám, làng lạng, dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ".

 

(..) Đọc truyện ngắn Nam Cao, chúng tôi gặp rất nhiều những từ ngữ đặc biệt của nông dân Bắc Bộ. Những từ ngữ trong sinh hoạt hàng ngay, những cách so sánh ví von, nhưng cách suy nghĩ nói năng Chẳng hạn Chạy xạc cả gấu váy", "buồn cười chứa, có vậy mà cũng gắt như mắn thối "cứ ngay mặt ra như cần tàn dáu go mặt muối", "chỗ mềm vào", "Giới ơi là giới Có chồng con nhà nào thể không ? Chi vác cái mặt lên như con trâu nghênh suốt ngày. Chẳng nhìn nhỏ đến cái gì. Để cho con ăn đất ngoài sân kia kìa!..."

 

Có thể nói chất giọng ngôn ngữ nông dân Bắc Bộ chi phối nhiều yếu tố, và là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách ngôn ngữ của Nam Cao, đặc biệt là trong việc thể hiện tâm lý nhân vật.

 

(...) Truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám của Nam Cao là truyện tâm lý. Ngay từ những dòng mở đầu của mỗi truyện, Nam Cao đã dẫn ta nhập ngay vào những dòng đang suy nghĩ của nhân vật. Tính chất "đang suy nghĩ", "đang đối thoại" đang độc thoại, "đang nói chuyên ở trong tâm tưởng" của nhân vật là một đặc trưng phong cách truyện của Nam Cao. Tác giả không kể lại những này nghĩ của nhân vật, nhân vật cũng không tự suy nghĩ như một dòng ý thức tuân cháy, nhân vật cũng ít phân tích những trang thủ tàn ly, cảm xúc mà dường như nhân vật đang nói to lên dung nổi toạc ra, đang mở toang ra cánh cửa tâm hồn của mình. Giọng điệu tâm lý là giọng điệu nói bộc trực thẳng thừng, đầy chất liên tưởng ấy lá lúc hắn lò dò về đến sạn Hán đang đi bóng giật mình. Một con cho đang thu thu trong một bụi dòng ở đầu san nhu thoảng ra Một tỉ nửa thì nó đớp vào chân hắn. Hán nhảy cũng lên một cái và hơn sức nhớ ra rằng. Nhà hán có một còn cho vẹn, con cho vòn ấy hay trong mã hóa cuốc, nên làm khi chức đẹp cả chân người nhà Đó là một cái tật không thể tha thứ được. Bởi không ai nuôi cho để nó cần què chân bao giờ. Ở mà lại điều này nửa nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tùy gia cảnh, nhà giàu nuôi là phải, bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt ; còn nghèo rớt mồng tơi như nhà hán, nuôi làm gì? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc. Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ. Tháng ca con da lên ba. Nó đã có thể ra vườn được Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để chẳng có việc gì cho nó làm... Thế là đủ làm. Han sung sướng vì đã nghĩ ra điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó vẹn... (Trẻ con không được ăn thịt chó)

 

Trong cách thể hiện tâm lý nhân vật của Nam Cao, mọi yếu tố miêu tả, kể chuyện được gọt tin gắn hết. Cho nên văn Nam Cao rất Ít miêu tả ngoại cảnh, rất ít để lộ những đoạn kế, những đoạn dẫn truyện . Câu chuyện hầu như chỉ là dòng tâm lý vận động không ngừng. Cảnh vật bên ngoài cũng ẩm ướt tâm lý nhân vật. Thời gian hiện thực rất ít khi lộ ra. Thời gian cũng là thời gian tâm lý không xác định. Nam Cao hay diễn đạt thời gian bằng những từ : Từ đấy, "được ít lâu", "từ ngày có ông Lang Rận", nhưng một đêm mùa đông rét mướt kia", "thế rồi một hôm". "ít lâu nay, "buổi tối hôm ấy. có khi câu chuyện là lược sử cả một quãng đời dài của nhân vật (Di Hảo, Ở hiển...) thì yếu tố thời gian cũng lược giản chỉ còn vừa đủ để người đọc hiểu là nhân vật đã trải qua quãng thời gian ấy. Thời gian không phải là yếu tố chi phối tâm lý nhân vật và cốt truyện, mã tâm lý nhân vật luôn vận động đẩy câu chuyện tiến tới. Nhân vật luôn suy nghĩ tính toán lật đi lật lại rồi hành động Mạch truyền phát triển trên mạch tâm lý. Tâm lý diễn ra trước, hành động diễn ra sau nhuần nhuyển, kết hợp rất tài tình làm cho người đọc thấy tính cách nhân vật hiện rõ lên như khác như tạc, không thấy chỗ nào là gượng ép là áp đặt, không thấy đau là bàn tay sắp đặt của tác giả. Tâm lý gởi tâm ly, tâm lý gợi liên tưởng, suy diễn, tâm lý thúc đẩy hành động và kết thúc truyện bao giờ cũng là kết thúc bất ngờ, lúc tâm lý nhân vật được dán đáy lên đến đỉnh cao nhất, được cường điệu hóa cao nhất, được xô đẩy dồn nén dưới một áp lực quyết liệt nhất thì nhân vật hành động, và kết thúc. Chẳng hạn Anh Đi Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phát cái ghế đó văng xuống đất. Cá trong rút mạnh lại Cái bộ xương bọc da giay giữa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới sợi thừng lùng lắng" (Nghèo). Đi Chuột treo cổ tự tử chết một cách dữ dội. Mọi chi tiết trước đó trong truyện như những sức ép tâm lý ngày càng tăng lên, mảnh liệt như nước dùng, như lửa cháy, khiến cho đi Chuột không thể nào hành động khác được. Anh ta quyết liệt cho đầu vào thông lòng và giận dữ đạp phảng ghế. Cái chết của Chí Phèo, của lão Hạc cũng dữ dội như vậy. Trong truyện Đón khách, tuy tình huống là vui vẻ, nhưng mạch tâm ly được tích tụ ngấm ngầm, đáy v lên và uất nghẹn ở kết thúc truyền Trước mâm cơm Tết "Cơm trang, cá ngon, giò đầy mâm, banh chung rền lâm" cả nhà ngồi lặng im. Ông Đỗ cử nghẹn luôn mãi, đôi mắt ông ứng ác nước mắt. Uất quá, ác quá mà không nói ra được. Truyện kết thúc gây một ấn tượng rất mạnh trong lòng người đọc và một dư vị lâu dài làm cho người đọc phải suy nghĩ

 

Để thực hiện được sự vận động tâm lý, gắn liền mạch truyện, loại bỏ thời gian, Nam Cao ít dùng hồi tưởng như thủ pháp người ta quen dùng, ông thường dùng biện pháp liên tưởng từ sự việc này gợi ra, gọi ra sự việc khác. Dường như có một mạch lập luận suy diễn ngầm trong tâm lý nhân vật, trong kết cấu truyện. Một ý tưởng khởi điểm xuất phát, qua nhiều chặng liên tưởng loại suy, qua những sự việc hô ứng liên châu, câu chuyện phải tiến triển theo hướng đã định. 

 

Chẳng hạn truyện Những truyện không muốn viết Tác giả đã lập luận rằng kể chuyện mình tức là "đó đón" Nói "cái tôi" là đáng ghét là bỉ ổi, thời còn nói đến làm gì. Tác giả nói đến những cái khác. Cái khác đó là chuyện người đàn ông có vợ rồi, chuyện con chó mực; chuyện thăng say và cuối cùng không còn dám viết cái gì nữa, bởi vì viết chuyện gì cũng bị đụng chạm kể cả những chuyện "buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn hay con lớn. Nhưng biết đầu đấy ?... Tôi sợ có người lại nhận mình là buồng cau, cây chuỗi, cục đất, buổi hoàng hôn, hay là con lợn để mà không bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên chuyện". Rõ ràng là có một cách lập luận, một cấu trúc vòng tròn phát triển. Truyện Cười cũng có một sự vẫn động tương tư. Mọi diễn biến xoay quanh cãi trục lập luận là phải cưới, cứ cưa đi, cười nhiều đi". Truyện Cái mặt không chơi được cũng xoay quanh chính cái tiêu đề ấy mà phát triển qua nhiều tình huống, nhiều thời điểm trong cuộc đời... Tuy nhiên, không phải tất cả mọi truyện ngắn của Nam Cao đều có cấu trúc rõ như vậy. Nhưng nếu để ý kỹ, người đọc dễ nhận thấy có một mạch lập luận ngầm trong phong cách ngôn ngữ của Nam Cao, dù là trong một đoạn văn, hay một cảnh, hoặc trong cấu trúc cả truyện. Đoạn sau dậy trong Đón khách là một thí dụ :

 

"Có giới biết đấy ; quả thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy là cái tật chung của những người trẻ tuổi. Vả lại, Sinh vẫn tưởng không đời nào lại có những người ngớ ngẩn như thế được Vẫn biết ông Đồ tính thật thả. Nhưng còn bà cụ nữa chứ " Bà phải hiểu rằng Sinh đùa cợt, có ai ngờ bà Đồ cũng lẩn thẩn như ông Đồ nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được một mẻ tức cười. Nhưng nói thế thì ai hiểu. Truyện phải kể có đầu, có đuôi. Vậy đầu đuôi như thế này...".

 

Chúng ta thưởng gặp trong suy nghĩ của nhân vật, hoặc trong chuyển mạch truyện Nam Cao hay dùng những từ ngữ của văn nghị luận "quả thật", "nhưng mà", "vả lại", "bởi thế", "vậy", "nên", "thế mà", "ấy mà"... Điều đặc sắc là tuy có sự lập luận như vậy, nhưng ta đọc vẫn thấy tự nhiên, và tưởng như phải viết như vậy, nhân vật phải cảm nghĩ như vậy, câu chuyện phải tiến triển như vậy, không khác đi được.

 

Nam Cao thể hiện rất tài tình và chân thật tâm lý người nông dân và người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của họ ngột ngạt, bế tắc, đói khổ dần vặt triền miên. Tâm hồn họ luôn cuốn cuộn cơn bão những xung đột bi kịch. Họ khao khát sống có ích, sống tốt đẹp, sống lương thiện, sống với ý nghĩa đích thực của một Con Người. Nhưng xã hội cũ không cho họ được quyền sống như vậy. Hoặc họ phải cam chịu (Di Hảo. Ở hiển) hoặc phải dũng cảm, quyết liệt tìm lấy cái chết (Nghèo, Lão Hạc, Lang Rạnh hoặc bị tha hóa, hoặc âm thầm khóc cười. Nam Cao không đem đến một chút ánh sáng nào cho nhân vật của mình. Duy nhất có một lần, trong truyện Điếu văn, Nam Cao tin tưởng “Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã bảo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên.." và Nam Cao "lở mở thấy một sự sụp đổ gì sắp tới" của cái xã hội cũ trước Cách mạng tháng Tám. Đọc Nam Cao ta không tìm thấy những rung chuyển lớn lao của một xã hội trước Cách mạng, không có những trang phản ánh bối cảnh lịch sử đang vận động, mà dường như chỉ có một mạch tâm lý chung vận động qua nhiều tình huống hoàn cảnh, ở một loại nhân vật mà Nam Cao thường gọi trống không là "hắn" hoặc "y", "thì", dù cho Nam Cao có gọi riêng ra thành tên hẳn hơi hoặc chỉ gọi trống không như vậy.

 

Mang đề tài của Nam Cao cũng giới hạn trong những chuyện đời thưởng hằng ngày ở nông thôn nhiều nhất là chuyện đổi, chuyện vợ chồng dẫn vật nhau, con cái nheo nhóc, những thói xấu của người nông dân, của trí thức nghèo tiểu tư sản, những chuyện mà tuy cưỡi ở bên ngoài, nhưng cảm uất và đầy nước mắt ở trong lòng. Những truyện mà từ đó Nam Cao suy nghĩ triết lý về cuộc sống. Khuynh hưởng triết lý là một trong những yếu tố làm nên phong cách Nam Cao.

 

(...) Nói như vậy không có nghĩa là những sáng tác của Nam Cao là những sáng tác triết lý và những điều Nam Cao triết lý là những gì siêu hình theo cách tư duy của các nhà tư tưởng. Thực ra chất triết lý chỉ bàng bạc trong truyện, ẩn sâu bên dưới những sự việc, những tâm lý, những vui buồn hỗn độn của cuộc đời. Có khi nhân vật đang suy nghĩ, bỗng chen vào một ý nghĩ như một triết lý sống, tử cái triết lý ấy, tâm lý nhân vật vận động. Đây là cách nghĩ, cách nói nông dân, trong khi nói thưởng chém vào những câu nhân định, những kinh nghiệm sống đã được rút thành những chân lý, thành ẻ phải ai cũng công nhận trong một hoàn cảnh xã hội nhất định. Chẳng hạn :

 

- "người điều độ là người khôn ngoan" “những thằng không có của không bao giờ mất của”;

 

"sự có quấp của đàn bà thật là khó chịu nhưng nhiều khi có lý"

 

"Đời bạc lắm":

 

- “Người ta thường bảo khi 2 người con gái lớn ở với nhau cùng một nhà, thì họ thành tinh":

 

“Những kẻ chỉ suốt đời tính toán là những kẻ làm khổ thân suốt đời ;

- “Sống khổ đến đầu, cũng còn hơn chết. Cái tâm lý chung của người đời như vậy a “Thương con thì để bụng, nuông con thì giết con đi

 

- "Con người ta, có cơm vào là có da, có thịt ngay. Chẳng lâu đầu Ngon hay không là tại miệng. Mà cái miệng người đói thì an gì cũng ngon

 

Những câu triết lý như vậy ta gặp rất nhiều trong suy nghĩ của nhân vật truyện Nam Cao. Thực ra đó chỉ là kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tâm lý trong quan hệ xã hội của một xã hội năng thôn Khi nói chuyện với một người nông dân, ta hay gặp cách triết lý thực nghiệm như vậy trong ngôn ngữ của họ. Tuy nhiên trong truyện Nam Cao, Nam Cao không dừng lại ở những triết lý thực nghiệm kiểu nông dân như vậy. Nam Cao muốn vươn tới ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu rộng hơn nhiều. Ta hãy đọc một đoạn đối thoại giữa "ông giáo" và lão Hạc triết lý về cuộc đời :

 

"Lão chua chát bảo

 

- Ông giáo nói phải ! Kiếp con chó là kiếp khổ thi ta phải hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn ...

 

Tôi bùi ngùi nhìn lao, bảo :

 

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng ? - Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm

 

kiếp gì cho thật sướng ? Lão cưới và họ sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ổn tồn bảo

 

Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang. nấu một ấm nước chè tươi thật đặc : ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là sướng.

 

- Vâng ! Ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng".

 

Nam Cao triết lý về kiếp người, về sướng khổ, theo cái cách của người nông dân. Bế tắc và lảng tránh, thôi thì thực tiễn vậy. Trong hoàn cảnh đói khổ, có được củ khoai, tách trà, hơi thuốc lào và nhất là có được một người thông cảm được nỗi khổ, đó là sướng. Đó là cái hạnh phúc nhỏ nhai, thực tiễn nhưng giả dối. Nam Cao mơ hồ thấy được nguyên nhân của sướng khổ chính là ở sự bất công Nam Cao kêu lên như phần vật

 

"Tại sao trên đời này lại có nhiều bất công đến thế ? Tại sao ở hiển không phải bao giờ cũng gặp lãnh ? Tại sao những kẻ hay nhịn. hay nhường thì thương thưởng lại chẳng được ai nhịn nhường minh, còn những kẻ thành công thì hầu hết là những người rất tham lam chẳng biết nhìn nhường ai, nhiều khi còn xao trả, lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn" 2 (Ở hiện).

 

Nam Cao triết lý và suy nghiệm. Nam Cao thấy rất rõ sự bất công ấy hiện ra ở bọn nhà giàu "Cái bọn ngu dốt mà giàu đáng ghét vô cùng. Chúng chỉ biết có tiền và coi người như rác, như rơm" (Sao lại thế này. Thực chất bọn nhà giàu theo cách hiểu của Nam Cao chính là bọn bóc lột. Chúng bóc lột rất tàn nhẫn. Cơm nhà giàu khó nuốt. An của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra mà giả họ" (Một đám cưới), "Gợi lòng thương một người chủ tham lam còn khó làm thay "" (Điếu văn) Thế nhưng trong xã hội cũ, một xã hội mà con người không bằng con vật, phải sống trong cảnh đói khổ triển miền thi “Thiếu gì kẻ chẳng lấy gì làm can đảm vẫn phải bán dần dần sự sống đi để giữ cho mình khỏi chết. Có lẽ chết đói là một cách chết mà chúng ta sợ nhất trong bao nhiều cách chết. Ta có thể liêu chết mà kiếm ăn" (Quên điều độ).

 

Vấn đề là giải quyết những bất công ấy bằng cách nao, bằng con dường nào? Nam Cao thấy rằng không có con đường nào giải quyết ca. Ông triết lý

 

"Người thì ở chỗ nào chả là người ? Mà cuộc đời thì ở bất cứ cảnh

 

nào cũng chảy trôi theo những định luật chưa bao giờ lay chuyến

 

được" (Ở hiện) Đôi khi ta thấy ở Nam Cao lóe lên những ý nghĩ táo bạo : "Chàng muốn có can đảm giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết" (Cái chết của con mực), hoặc là : "Phải biết ác, biết tàn nhân để sống cho mạnh mẽ". Những ý nghĩ như vậy chỉ lóe lên một lần rồi tắt ngấm Nam Cao đã để cho Chí Phèo đảm chết Bá Kiến, trực diện đòi quyền được sống làm người lương thiện. Thế nhưng Chí Phèo lại phải tự sát. Nam Cao thu về cái nhìn buông xuôi bị quan. "Chao ôi ! Ở trên đời này có cái gì bền vững mãi đầu" (Làm tối và thực sự trốn chạy, khép kín, sống cam chịu và áo tưởng "Ông cũng vậy mà tôi cũng vậy ít ra chúng ta cũng còn một xó để tự do. Khi cửa nhà chúng ta khép kín. Ta có thể lỗ làng mà không bận gì đến ai..." (Đôi móng giò). Tuy vậy Nam Cao không quên cuộc đời được, ông vẫn buồn. "Cuộc đời quả thật cứ một ngày một thêm đáng buồn" bởi vì Ta nên sợ cái chết trong lúc sống cái chết đáng buồn của những người sống sở sở ra đấy, nhưng chẳng dùng sự sống của mình vào công việc gì" (Cười) Tuy triết lý của Nam Cao đẩy bị quan, nhưng nhiều truyện của ông có nhưng mầm mống của sự quật khởi, một sự phản kháng quyết liệt để giành lấy quyền sống làm người, để gìn giữ một chút tình thương và hạnh phúc nho nhỏ. Chí giết chết Bá Kiến, đi Chuột tự tử cho vợ con đỡ khổ. Lão Hạc an bả chó chết để giữ trọn nhân cách và giữ mảnh đất cho thằng con Truyện Sao lại thế này là sự quật khởi của một người phụ nữ từ địa vị một con ở, một lần ăn vụng cơm bị mẹ chồng "bóp chặt cổ... rồi lu loa cho hàng xóm đến xem. Đứa con dâu phải nhà cơm ra, nước mắt chứa chan". trở thành một phụ nữ quý tộc đối đãi rất lịch sự với anh chồng cũ của mình, nay anh chồng ấy lại là người làm thuê cho mình. Hoặc trong truyện Đổi móng giò, sự quật khởi của Trạch Văn Đoành thật thú vị. Từ "một chàng bạch đinh, con một lão đi câu chết mất xác dưới sông, bỏ làng đi chân đi chê rồi đột nhiên trở về nhảy tốt lên bao lớn ngồi làm một ông kỳ mục", rồi dùng một cái “hắn đưa bốn ông lên huyện về việc bao chiếm công điền. Đùng một cái nửa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc làm tiền công quỹ. Rồi đùng một cái nữa.. và cái nữa. luôn năm sáu cái dùng như vậy hắn làm các ông liễng xiềng. Bởi tội các ông nhiều như lá trên rừng, các ông đâm hoảng". Thế là Trạch Văn Đoành sống ngang tầng ung dung, chẳng đứa nào dám đụng đến hắn.

 

Những trường hợp quật khởi và thắng lợi như Trạch Văn Đoành trong truyện ngắn của Nam Cao không nhiều, nó làm giảm bớt không khi đau buồn, bế tắc trong xã hội văn chương của ông. Những trường hợp ấy, sự thành công của nhân vật có được là do sự biến đổi có tính chất may mắn của cuộc đời, một sự đổi đời. Sự đổi đời ấy không xuất phát từ một sự giác ngộ dưới ánh sáng một lý tưởng tiến bộ nào.

 

Tuy cách giải quyết những vấn đề triết lý nhân sinh của Nam Cao là hoàn toàn bế tắc, nhưng những vấn đề triết lý Nam Cao đặt ra lại có sức vang động sâu xa và lâu dài của cuộc sống. Chẳng hạn vấn đề Chí Phèo đã quyết liệt đòi lại ; "Tao muốn làm người lương thiện". Trong một xã hội còn bọn bóc lột, thì người lao động khó có thể sống lương thiện, khó có thể mưu cầu được hạnh phúc đích thực và đẩy đủ Hoặc vấn đề đấu tranh chống lại các ác (Đón khách), vấn đề bảo vệ nhân cách trước sự tha hóa của những thể lực ảnh hưởng xấu của xã hội (Lão Hạc), hoặc vấn đề cư xử giáo dục trẻ em trước những cái xấu của người lớn (Trẻ con không được ăn thịt chó. Bài học quét nhà), hoặc vấn đề người trí thức làm sao sống cho có ích, xã hội phải trả lại cho họ quyền được sống bằng chính công hiện của mình (Đời thừa)vv.. Chính ở những vấn đề sáu sắc Nam Cao đã đặt ra, ta nhận thấy chiều sâu của một ngòi bút nhân đạo chủ nghĩa thật đáng trân trọng, một cái nhìn hiện thực sắc bên chân thật và một tài năng sáng tạo thật mãnh liệt. Nhưng tính cách như Chi Phèo, lão Hạc và của chính Nam Cao qua những nhân vật như Hộ, Điền, ông giáo là những tính cách có sức khái quát lớn và ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu sắc. Những tinh cách như vậy đã được xem là những cột mốc chắc chắn trên chặng đường phát triển của văn xuôi hiện đại Chính những vấn đề triết lý và những tính cách nhân vật độc đáo ấy đã làm cho truyện ngắn Nam Cao có khả năng vượt rất xa trong thời gian, và thật khó làm lẫn giữa bao nhiêu nhân vật khác trong cả đời thực và trong văn chương Điều đó xác dính tài năng và giá trị của Nam Cao. Những truyện ngắn của Nam Cao sau Cách mạng tháng Tam hầu như thay đổi hẳn về phong cách. Thay vào bút pháp tâm lý và bút pháp kế và thuật lại, ngôn ngữ không còn lạnh lùng đến tàu nhân nữa, mà thay vào đó một ngôn ngữ điểm đạm hơn, từ tốn hơn. Người nông dân của Nam Cao không còn là những nhân vật "dốt nát, nheo nhóc, nhất sợ, nhịn nhục một cách đáng thương nữa. Bây giờ họ là những con người anh hùng quyết chiến thắng kẻ thù (Trần Cư), đùm bọc nâng đỡ nhau gánh vác cho nhau quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ (Định mức) Người trí thức như Độ (trong Đôi mắt) đã được sống, cống hiến tài năng, sức lực, tâm huyết của mình trong cách mạng, mặc dù chỉ là "một anh tuyên truyền nhãi nhép", "khoác cái ba lô lên vai đi hết làng nọ đến làng kia" cùng với dân tộc làm nên những sự nghiệp vĩ đại. Sự thay đổi ấy bắt nguồn từ sự thay đổi cuộc sống. thay đổi phương pháp sáng tác và thế giới quan của nhà văn. Tuy vậy ngôn ngữ Nam Cao vẫn còn giữ lại một đôi yếu tố của phong cách trước, chẳng hạn : tỉnh triết lý của chủ đề, tỉnh hài trong những chi tiết kể, tả và ngôn ngữ nông dân trong giai đoạn mới. Rất tiếc là Nam Cao đã hy sinh quá sớm trong khi chưa định hình hạn một phong cách mới.

 

Thật khó có thể dùng một từ ngữ để xác định nội dung phong cách Nam Cao, bởi vì những sắc thái của Nam Cao ấy thật phong phú. Rõ ràng Nam Cao có một phong cách ngôn ngữ riêng, một phong cách nghệ thuật riêng và một phong cách nhà văn riêng. Th cả những cấp độ phong cách này xuyên thấm vào nhau và bộc lộ ra cùng một lúc, thống nhất và vận động.

 

Trong ba cấp độ phong cách thì phong cách nghệ thuật của Nam Cao là trội hẳn lên so với phong cách ngôn ngữ và phong cách tác giả, mặc dù có sự xuyên thấm và vận động giữa ba cấp độ này. Chúng ta nhận thấy bút pháp tâm lý và tính triết lý trong những truyện ngắn của Nam Cao là đặc sắc và có giá trị bao trùm lên ngôn ngữ có chất nông dân Bắc Bộ và chất trí thức tiểu tư sản hỗ tắc, bị tráng của Nam Cao. Cũng chính sự thể hiện tâm lý và những nhận thức triết lý của Nam Cao là những đóng góp độc đáo làm nên những giá trị riêng của Nam Cao. Phải chăng chúng ta có thể gọi Nam Cao là một cây bút tâm lý - triết lý như đặc trưng phong cách Nam Cao.

 

(In trong Tạp chí Văn học, số 2, 1997)

_-------------------------

(1) Văn nghệ, số 18 ngày 29-11- 1986

(2) Tạp chí Văn học,số 6,1982, tr 71

 

 

 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét