QUA TRUYỆN NGẮN "CHÍ PHÈO BÀN THÊM VỀ CAI NHÌN HIỆN THỰC CỦA NAM CAO
Trần Tuấn Lộc
Ra đời năm 1941, truyền ngắn Chí Phèo của Nam Cao đã không định ngay từ đầu sự hình thành của một phong cách mới, vừng vàng thụ sức màn Có thể nói trong toàn bộ những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tăm sẽ đề tài nông dân. Chí Phèo là một thành tựu đặc biệt, tiếp tục truyền thống của những tác phẩm hiện thực trước do như Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Bước dương cùng của Nguyễn Công Hoan - Trung nền văn học hiện thực đang tin đường và đang chiến đấu với các xu hướng phản động hay mộ, thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao nổi bật lên, thật xuất sắc Là tất nhiên như bất cứ một tác phẩm hiện thực phê phán nào khác trong thời kỳ đó, truyện ngắn này của Nam Cao không tránh khỏi một số than hun chế mà trong điều kiện sáng tác theo phương pháp của chu nghìn buôn thực phê phán, một nhà văn có tài và tốt cùng khó lòng mà vượt qua được. Nhưng do tính sâu sắc của nội dung hiện thực, tính chất chẽ, linh hoạt của kết cấu, tính hấp dẫn liên tục của tỉnh tính tình độc đáo của nhân vật, truyện nhân Chí Phèo đã để lại trong trí nhớ của mọi người những ấn tượng khó pha mờ.
Toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngăn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo. Là một đưa con để hoang, lớn lên trên làm con nuôi, đứa đi và cuối cùng làm canh diện" cho địa chủ. Chí Phèo là một có nóng thực sự, với tất cả ý nghĩa đầy đủ và dụng đơn nhất của hai chữ đó.
Hồi còn là "canh diễn cho Bá Kiến, Chí Phèo vốn hiện lãnh và lương thiện, có ý thức rõ rệt về nhân phẩm của mình : “Hình như có mấy lần bại ba nhà ông lý, còn trẻ lắm, mà lại cứ hay ôm lừng. bát hàn bóp chân, hay xoa bụng đầm lưng gì đây... tội nghiệp cho hãn, có lần lý Kiến thủy hạn vừa bóp đùi cho bà ba vừa run Ha cay han hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đã, nhưng cũng không toàn là xác thịt, người ta không thích cái gì người ta khinh Và lại bị một con đàn bà gọi đến mà bóp chân!.Hắn thấy nhục hơn là thích. Hán chi thấy nhục - Ro rằng tính chất lưu manh còn đồ của Chi sau này chính là do hoàn cảnh khách quan tạo nền : chế độ xã hội đã tha hóa bản chất vốn trong sáng, lành mạnh của Chí.
Bằng cách làm nổi bật sự thay đổi dữ dội trong tính cách của Chi Pheo trước và sau khi đi tù về, Nam Cao đã tố cáo sự hủy hoại ghê gớm đối với phẩm chất, nhân cách của người lao động do xã hội gây nên. Quá trình lưu manh hóa, trụy lạc hóa của Chí Phèo đã bắt đầu từ trong thời gian bảy, tám năm Chi đi tủ, chứ không phải từ sau khi Chi trở về làng Vũ Đại. Vì khi Chi mới bước chân về đến làng, người ta đã thấy Chí "khác hẳn" trước, do cái vẻ bề ngoài rất còn đó, "anh chị", cũng như do cách sinh hoạt bẻ tha của Chí "Cái đầu thi trọc lốc, cãi rằng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất công cứng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết ! Hắn mặc quần áo nói đen với cái áo tây vàng Cái ngực phanh, đẩy những nét chạm trổ rồng, phương, với một ông tướng cầm chủy, cả hai cánh tay cũng thẻ, trông gớm chết ! Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt tử trưa đến xế chiều". Về làng, càng ngày Chí Phèo càng tỏ ra là một tên côn đồ hung dữ, một tay "anh chị" ngang ngược, liều mạng, lúc nào cũng say, cũng gây gỗ, chửi bới, "Giờ toàn những giọng uống máu người không tanh" lúc nào cũng giận dữ, đập đầu, rạch một, nằm vạ, kêu làng. Rõ ràng đó là những biểu hiện của một sự phản ứng gay gắt, quyết liệt. Nhưng chính tinh chất lưu manh, trụy lạc của Chí Phèo cũng đã làm cho sự phản ứng đó hóa ra tiêu cực, mất phương hướng, và do đó trở nên rất nguy hiểm. Chỉ gây sự với cha con địa chủ Bá Kiến, nhưng ngay sau đó lại gây sự với "mụ hãng rượu" rồi châm lửa đốt luôn của lều của ma. Ngay cả khi Chi gây sự với Bá Kiến, hành động của chỉ cũng chưa phải đã hoàn toàn xuất phát tử sức mạnh của lỏng cầm thủ sâu sắc, triệt để đối với kẻ thù đã làm hại cả một đời mình.
Cái hung hăng của Chi lúc ban đầu vốn là do sự kích thích của hơi rượu. Chả thế mà khi rượu đã nhạt thì Chí cũng cảm thấy "không hàng hái" nữa, và cảm thấy sợ, "cái sự cổ hữu, cái sự xa xôi của ngày xưa" ! Và Bá Kiến chỉ cẩn ngon ngọt vài ba câu, giết gà mua rượu cho Chí uống, dui cho Chi đồng bạc, là Chi quên hết, chả hề" ra về! Nguy hiểm nhất là Chí Phèo bị kẻ thủ lợi dụng mà không biết. Chi thiếu sự tỉnh táo, sáng suốt cần thiết. Do đó, không những đã nhanh chóng thỏa hiệp với kẻ thù, Chí còn trở thành tay sai đắc lực cho chúng. Từ đó, Chi càng trượt dài xuống cái dốc đẩy tội ác không cách gì cứu văn được, mang trong bản thân mình cái mẫu thuẫn kỳ lạ và đáng buồn : vừa là nạn nhân khốn khổ của bọn cưởng hảo, địa chủ, vừa là "con quỷ dữ" đối với nhân dân làng Vũ Đại. Và cũng vì thế mà Chí Phèo bị mọi người ghê tởm, xa lánh : "Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại đế tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đầu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn biết đầu vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say. Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần bắn quan.
Càng đi sâu vào con đường bế tắc, Chí Phèo cảng thủ đời, cũng uất giận, và trút tất cả sự căm tức của mình lên mọi thứ ở trên đời. Chí khiêu khích gây sự với toàn thể xã hội. Chả thế mà Chí phải đi khắp làng để chửi, chửi cả trời và chửi cả đời, chơi cả làng Vũ Đại, chửi "cha đứa nào không chửi nhau" với Chí, và thực là không ngờ, chửi cả "đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo" nữa! Chi khổ lắm, Chí "tức chết đi được", và Chí chỉ muốn đi báo thủ, "báo thù vào bất cứ ai ! Tính chất cực đoan, vô chính phủ trong những hành động phản kháng của Chí thật đã rõ ràng. Nam Cao đã mở đầu cho truyện ngắn này của mình bằng cái hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi" rất là độc đáo đó, một hình ảnh hài hước, lôi cuốn người đọc. Nhưng cái sâu sắc của ngòi bút Nam Cao là ở chỗ cái bên ngoài có vẻ hài hước đó của Chí Phèo lại là biểu hiện của cả một tấn bi kịch bên trong, và cái cười bất giác lúc ban đầu lại lắng động trong lòng độc giả một dư vị đau buồn, chua chát.
Trong bài Con người và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao khi phân tích nhân vật Chí Phèo, hai bạn Phong Lê và Huệ Chi có viết rằng "bảy tám năm từ tội nung nấu trong lòng anh - Chí Phép thứ ý thức cảm thủ giai cấp không nguôi", rằng Chí Phèo "hiểu sâu xa bộ mặt gian ác của bọn cường hảo và quyết tâm nuôi ý định trở về tính hiệu mô thu xưa", rằng "hành động phản kháng của Chí Phèo ban đầu vẫn đúng hướng, xuất phát từ một ý thức căm thù giai cấp hắn hỏi, nhưng dần dần về sau, đã đi lạc hướng " Theo tới, nhận định như the e có phần chứa thỏa đáng. Chí Phèo có cảm thông Bá Kiến nhưng căn cứ vào tâm lý và hành động của Chí như đã phân tích ở trên, liệu có thể coi đó là ý thức căm thù giai cấp không người" là ý thức căm thù giai cấp hẳn hoi" được chưa ? Quả thật là về đến làng thì Chí Phèo đến gây sự với Bá Kiến trước tiên. nhưng ngay sau đó cũng lại gây sự với "mu hàng rượu" và nhân làm tay chân cho Bá Kiến không một chút do dự (mà những hành động này diễn ra chi cách nhau hôm trước, hôm sau), như thế liệu có thể xem đó là hành động phản kháng "ban đầu vốn đúng hướng rồi dẫn dẫn về sau" mới "đi lạc hướng được không ” Thực ra, ngay từ khi mới đặt chân về làng, sự phản kháng của Chí Phèo đã có phần lạc hướng, và về sau, do bị địa chủ lợi dụng, sự phản kháng đó trở nên lạc hướng hoàn toàn. Khi một người nông dân chưa được giác ngộ cách mạng, người đó có thể có ý thức căm thù sâu sắc đối với tên địa chủ cụ thể đã phá hoại đời mình, nhưng có được "thứ y thức căm thù giai cấp hẳn hoi”, điều đó không phải là chuyện dễ dàng, bất cứ ai cũng có thể có được, huống chỉ là đối với trường hợp Chí Phèo, một con người từ lâu đã trở thành một tay lưu mạnh, con do.
Tinh chất bị đất và sự bé tắc trong số phận của Chí Phèo không phải chỉ ở chỗ Chí Phèo có oan, có khổ, nhưng do bị lưu manh hóa, Chí chỉ biết phan kháng một cách cực đoan, vô chính phủ, không thể giải quyết sự bé tác, luận quần của đời mình, mà còn ở chỗ Chỉ Phèo bị xã hội cự tuyệt, không mở đường cho Chi quay về cuộc sống lương thiện, ngay cả trong lúc Chi thành thực khao khát muốn thay đổi cách sống của mình.
Sự diễn biến của câu chuyện, kể từ khi Chí Phèo gặp Thị Nở ở bờ sông, cho đến khi kết thúc, đã cho ta thấy rõ ràng sự tàn nhẫn đó của cuộc đời dưới chế độ cũ. Cái buổi sáng sau đêm gặp gỡ đô thực là đặc biệt, có một không hai trong cuộc đời u tối của Chí Phèo. Ánh nắng rực rỡ, tiếng chim hót vui, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài rõ mái chèo đuổi cá dưới sông, tất cả cái vẻ đẹp từng bừng, rộn ràng đó của cuộc sống đã thức tỉnh, kêu gọi Chí Phèo, khơi lên trong đáy sâu của lòng Chí khát vọng được song chan hòa với tất cả mọi người trong xã hội, sống lương thiện trong lao động và tình thương yêu. Sau bao ngày tháng điện say và đập phá, trong cái giờ phút yên tĩnh đó, Chi đã ước mơ có một gia dinh nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải" rồi "nuôi lợn để làm vốn liếng" để "khá gia thì mua dăm ba sao ruộng làm". Nam Cao đã thay được cái nguyên vọng sâu xa nhất của người lao động ở nông thôn - người cày có ruộng - nó vẫn còn nguyên vẹn trong chỗ sâu kín nhất của tâm hồn Chí Phèo, cái tâm hồn đã bị chế độ xã hội tàn phá nghiêm trọng. Hình tượng Chi Phèo từ đầu thiên truyện đến đây bằng nhiên hứng lên chút ảnh sáng lạc quan. Bát cháo hành nóng hổi và thái độ cởi mở của Thị Nở đã làm cho Chí Phèo ngạc nhiên, cảm động, và nhất là khát khao, hi vọng "Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù ? Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao Thị Nở sẽ mở đường cho hán Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được ” Họ sẽ thấy rằng hắn cung có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện" Nhưng hy vọng đã trở thành tuyệt vọng. Xã hội - qua thái độ của bà cô Thị Nở và của cả Thị Nở nữa - đã phủ phàng cự tuyệt khát vọng đó của Chí Phèo. Con đường sống lương thiện mà Chí Phèo tưởng như đã trải ra trước mắt mình thực ra không hề có; nó chỉ như cái mặt hồ áo ảnh trên sa mạc mênh mông một buổi trưa nắng chảy đối với người lữ hành đang khát nước ! Dưới chế độ thuộc địa, nhiều người bị những kẻ bóc lột làm cho sa ngã đến nỗi muốn sống lương thiện cũng không được Kết luận chua chất đã toát ra một cách khách quan trọng cảnh cuối cùng của tấn bi kịch Chí Phèo, ở đình điểm của cốt truyện, khi Chí vác dao vào để đâm chết Bá Kiến
. Tao đã bảo tạo không đòi tiền
- Giỏi ! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì ?
Hắn dõng dạc :
- Tao muốn làm người lương thiện 1
Bá Kiến cười ha hả
Ổ tưởng gì ! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được ! Ai cho tạo lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tạo không thể là người lương thiện nửa. Biết không .... Cấm thủ cao độ, bé tác hoàn toàn, Chí Phèo giết Bá Kiến và đồng
thời tự sát. Hành động đó xảy ra tuy nhanh chóng và đột ngột nhưng ai cũng thấy tính chất tất yếu phải xảy ra của nó, hợp với 1ồ gích của sự phát triển tính cách, tâm lý nhân vật Chí Phèo nói riêng, và nội dung câu chuyện nói chung. Lấy sự hủy diệt của đời minh để giải quyết cãi bế tác của đời mình, cái chết thê thảm đó của Chí Phèo là cả một sự phê phán gay gắt đối với chế độ xã hội thực dân phong kiến đã cha đạp lên quyền sống chính đáng của con người. Số phận bi đát của Chí Phèo phản ánh sự khủng hoàng trong đời sống của một số người, xuất thân là nông dân cùng khổ, chưa gặp cách mạng, chưa tìm thấy lối thoát cuộc đời ngày càng bị dồn vào con đường lưu manh, đây tội lỗi.
Đọc Chí Phèo, nhiều người tự nhiên nghĩ đến AQ chính truyện của Lỗ Tấn. Sự liên tưởng đó có căn cứ thực tế của nó. Thật vậy, có những nét gần gần giống nhau giữa hai hình tượng Chí Phèo và AQ. Cả hai vốn đều là cố nông, tứ cố vô thân. Chi Pheo thì ở trong cải miêu con ở bờ sông làng Vũ Đại, AQ, thì ở trong cái miếu Thổ Cốc của làng Mu.... Cả hai đều uống rượu, đều có những hành động lưu manh, ngổ ngáo . AQ nhổ trộm củ cải của nhà chùa về ăn, Chi Phèo cũng bẻ trộm chuối xanh, bốc muối của người ta để đem về nhóm rượu. AQ giới ban ngày, ôm lấy cô tiểu giữa đường làng mà trêu ghẹo một cách rất là ngang ngược. Chí Phèo cũng ngang ngược không kem khi gặp Thị Nở ở bờ sông Thị kêu bé mà Chi "lại là lên !" AQ cũng có khi tự đắc, coi mình là bậc nhất trong làng Mai, thì Chí Phèo cũng đã từng tuyên bố: “Anh hùng làng này các tháng nào bằng tạ!". Và cái chết của hai nhân vật cũng đều rất bị đất, chết mà không một ai thương xót, mặc dầu dư luận đã bàn tán xôn xao.
Thực ra, tính cách của hai nhân vật này hết sức khác nhau, phục vụ cho những tư tưởng chủ để xa nhau, và "khi sáng tác Chí Phèo Nam Cao không chịu một ảnh hưởng nào của AQ chính truyện, vì thời gian đó AQ chính truyện chưa được giới thiệu ở Việt Nam cũng như bản thân Nam Cao chưa trực tiếp đọc được tác phẩm của Lỗ Tấn qua tiếng Trung Quốc (1).
Chỉ cần nêu lên cái "phương pháp thắng lợi tinh thần" của AQ. của con người yếu ớt, "thấp cổ bé họng" ai trêu chọc, hành hạ cũng được cả, con người không có thể lực để phản kháng nhưng lại không chịu thừa nhận sự thất bại, kém cỏi của mình cũng đủ thấy sự khác nhau căn bản giữa nhân vật AQ với nhân vật Chí Phèo, "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Chỉ cần nêu lên ý nghĩa phê phán tính chất không triệt để của Cách mạng Tân Hơi trong AQ chính truyện cũng đủ thấy tác phẩm này cách xa như thế nào đối với truyện ngắn Chi Pheo về mặt tư tưởng chủ đề. Nhưng điều cần lưu ý ở đây là, từ Chí Phèo đến AQ, sự liên tưởng tự nhiên, phổ biến đó của người đọc cũng có ý nghĩa của nó: nó là một chứng có thừa nhận ý nghĩa xã hội, tỉnh chân thực, tương đối phổ biến của những con người kiểu Chi Pheo, AQ, trong thực tế xã hội nông thôn Thì ra, loại người cung đình khốn khổ, từ cổ vô thần, ít nhiều bị lưu manh hóa, ở nông thôn của một nước thuộc địa hoặc bán thuộc địa, trong xã hội phong kiến, thực dân, không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, cá biệt. Nó là một hiện tượng xã hội, nảy sinh một cách có quy luật trong điều kiện những quan hệ giai cấp phức tạp ở nông thôn dưới chế độ thực dân phong kiến.
Đánh giá phần đóng góp của Nam Cao trong truyện ngăn Chí Phèo không tách rời với việc đánh giá tầm quan trọng của sự nghiên cứu hiện tượng xã hội đó trong công tác cách mạng Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nhiều lần chú ý đến hiện tượng xã hội đó và trong các văn kiện của Người về vấn đề phân tích tình hình các giai cấp trong xã hội, Người cũng đã từng nêu lên nguyên nhân phát sinh, đặc điểm của loại người đó, loại "vô sản dư dân, nông dân phá sân", "vô sản lưu manh" . "Địa vị thuộc địa và nửa thuộc địa của Trung Quốc đã tạo nên một lớp người thất nghiệp đông đảo trong nông thôn và thành thị Trung Quốc. Trong lớp người này, có rất nhiều người bị bức đến nỗi không còn có một con đường chính đáng nào để mưu kế sinh nhai nửa, họ đánh phải tìm lấy một nghề bất chính để sinh sống. Đó là nguồn gốc của thổ phi, lưu manh, an mày, gái điếm... Một số người trong bọn họ rất dễ bị thế lực phản động mua chuộc. Một bộ phận khác có khả năng tham gia cách mạng...(2); "Loại người này thưởng dễ bị thế lực địa chủ, cường hào nắm lấy và lợi dụng. Họ có tính chất phá hoại mù quảng... Xử trí với những người này là một trong những vấn đề khó khăn của Trung Quốc. Loại người này có thể phấn đấu dũng cảm, nhưng họ có tính chất phá hoại, nếu lãnh đạo họ đúng phép thì họ có thể trở thành một lực lượng cách mạng"(3).
Trước Nam Cao, Nguyên Hồng đã phản ánh và miêu tả một cách tập trung loại nhân vật "vô sản lưu manh" đó trong tác phẩm Bị vỏ. Nhưng đó là loại lưu manh ở thành thị. Phần đóng góp của Nam Cao là hiện tượng xã hội đò ở nông thôn, hiện tượng Chí Phèo, với những đặc điểm riêng, với ý nghĩa quan trọng đặc biệt của nó, lần đầu tiên được Nam Cao phản ánh và miêu tả một cách tập trung vào văn học, qua một loài nhưng nhân vật như Chí Phèo, Binh Chức Nam Thọ (trong Chi Pheo), như Trạch Văn Đoảnh (trong Đà móng giả), như Trường Rư (trong Nửa đêm), vv. Tiếp theo các nhân vật nông dân đã được miêu tả trong văn học như chị Dậu (Tài đến của Ngô Tất Tố), anh Pha (Bước dương cung của Nguyễn Công Hoan) nhân vật Chí Phèo của Nam Cao cũng là một diễn hình góp phần làm cho hệ thống các diễn hình nông dân trong văn học hiện thực nước ta giai đoạn 1930 - 1945 công thêm phong phú
Nếu như trong Tắt đen, quan hệ giữa chị Dậu với hàng xóm, lăng giềng của chị là một quan hệ làm cảm động lòng người, quan hệ của những người cùng giai cấp, có ý thức giúp đỡ, đùm bọc nhau, thì trong truyện ngắn này của Nam Cao, quan hệ ấy lại diễn ra dưới cái vẻ thật là lạnh lẽo, đáng buồn. Chí Phèo sống cô độc giữa làng Vũ Đại, trong sự ghê sợ, xa lãnh của toàn thể mọi người, trong những thành kiến nặng nề của xã hội. Chí tức tối, đau khổ không ai biết. Chỉ chửi bới, kêu lỏng, chẳng ai nghe. Chỉ có Thị Nở là người duy nhất có tiếp xúc với Chí và có hiểu được Chí phần nào Chính Thị là người duy nhất phát hiện ra rằng Chí cũng có lúc "hiền như đất" ấy, rằng tính tình Chi cũng rộng rãi, dễ dãi. Chả thế mà có lần Thị xin Chí rượu để về bóp chân, Chí bão Thị . "ở xã nhà ấy, muốn rút bao nhiêu thì rút". Chính Thị cũng đã có lần tư hỏi: "Sao người ta ghê hắn thế ?". Nhưng đấy chỉ là một trường hợp đặc biệt (vì Thị vốn dở hơi) và tạm thời (vì cuối cùng, Thị cũng đã đi đến chỗ cự tuyệt Chí không một chút nể nang, thương hại).
Thêm nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã làm cho tính cách của nhân vật Chí Phèo phát lộ đầy đủ hơn, tạo ra một tình huống mới cho sự phát triển của tính cách Chí Phèo, dẫn đến cái kết thúc bi thảm của số phận Chí
Trong cuốn Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc, Hà Minh Đức có viết rằng "lối miêu tả về ngoại hình của một số nhân vật như Chi Phèo, Thị Nở..." của Nam Cao đã làm cho người đọc "chưa vừa lòng. Nam Cao đã tỏ quá dâm cái nét ngoại hình của họ làm hạn chế mất một phân tác dung tích cực của tác phẩm (tr 85, 86) Theo tới, nhận định như thẻ là đúng, nhưng chỉ dùng với trường hợp nhận Vì Thị Nở Chỗ chưa dùng của Hà Minh Đức là anh đã nếu thiếu nói đó của Nam Cao đối với cả trường hợp nhân vật Chi Pheo. Quả chất, sự miêu tả của Nam Cao đối với ngon hình của Thị Nở có làm cho người đọc cảm thấy nặng nề khi tác gia nếu một cách tỉ mà nhưng nét quá xấu xí, dị thường của bộ mặt Thị Nở, và ở cho đó lúc đó, Nam Cao đã lạc bước vào ngưỡng cửa của chủ nghĩa tự nhiên sự lạc bước đó con thấy tái phạm một lần nữa ở chỗ tác giả miêu tả cư chi của Thị Nở đối với Chí Phèo ở bờ sông, cũng như một số cư chỉ của hai người đối với nhau trong túp lều của Chi sau khi Chi đã ăn xong mấy bắt cháo hành, những kiểu "to tình" dung tục, nghịch ngợm mà tác giả đã gọi một cách hài hước là những cách câu vém bình dân... thiết thực" Nhưng đối với trưởng hợp nhân vật Chí Phèo, cũng như đối với một số nhân vật khác như Trương Rự (Nửa đêm) Trạch Văn Đoành (Đôi mong giả), thì cách miêu tả đó của Nam Cao, theo tôi nghĩ, không phải hoàn toàn là một thiếu sót, một hạn chế, một sự "lạc bước vào chủ nghĩa tự nhiên, mà chính là do yêu cầu của nội dung, của tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Bằng cách miêu tả như thế, Nam Cao mới có thể tố cáo mãnh liệt các xã hội thực dân phong kiến đã làm tha hóa bản chất, tâm tình vẫn lãnh mạnh, lương thiện của người lao động đã tàn phá nặng nề ngoại hình của họ. Chính cái ngoại hình xấu xí, dữ tợn của những nhân vật này là phản ánh cái nội tâm đã hư hỏng, tha hóa kia, là vết tích của bao nhiêu hành động tội lỗi, hung ác. Miêu tả ngoại hình như thế, đối với những nhân vật như Chí Phèo, Trưởng Ra Trạch Văn Đoành, những nhân vật lưu mạnh, còn đô (Thị Nở không thuộc vào diện nhân vật này), chính là do yêu cầu của phương pháp điển hình hóa.
Ngay việc Nam Cao miêu tả quả xấu xi ngoại hình của Thị Nở, chúng ta cũng nên thấy một lý do cần thiết của nó để làm rõ thêm sự bế tắc của Chí Phèo. Vì với một người đàn bà nghèo khổ, xấu xí, dở hơi, đàn độn, đã quả tuổi, thuộc dòng có máu hui, bị người ta tránh "như tránh một vật nào rất tởm", mà Chí Phèo cùng không lấy nói, không làm bạn nổi, trái lại còn bị hắt hủi kịch liệt, thì thư hỏi còn ai ở trên đời để cho Chi Phèo kết bạn được nữa?
Chí Phèo, Thị Nở là những hình tượng có ý nghĩa xã hội, gợi cho ta nhiều suy nghĩ đau xót. Phản ánh chân thực những con người đó, những quan hệ đó của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng tháng Tam, đó là giá trị hiện thực tố cáo của truyện ngắn Chi Pháo. Tuy nhiên, so với hiện thực rộng lớn của nông thôn Việt Nam hỏi bấy giờ, vốn đã xuất hiện ngày càng nhiều những cuộc đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi của giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì tính khái quát, điển hình của nội dung truyện ngân Chi Pháo còn bị hạn chế nhiêu, chưa phản ánh được mặt chủ yếu, mặt căn bản đó của hiện thực khách quan
Trong truyện ngắn Chí Phèo và trong nhiều truyện ngắn khác nửa vé để tại nông dân, cái nhìn của Nam Cao đối với hiện thực nóng thôn rõ ràng là bé tác và bị đất quá Hạn chế đó của Nam Cao chủ yếu là do thế giới quan thế giới quan của một nhà văn chưa đi với cách mạng. Nhưng hạn chế đó của Nam Cao cũng là hạn chế chung của tất cả các nhà văn hiện thực phê phán nước ta thời kỳ đó, kể cả Ngô Tất Tố. Vấn đề cần nêu lên là, so với Ngô Tất Tổ, cái nhìn của Nam Cao đối với giai cấp nông dân còn bị đất hơn nhiều. Nam Cao chưa phát hiện và ca ngợi được vẻ đẹp bên vững, cổ truyền trọng tâm hồn của người nông dân lao động nghèo khổ nước ta, như Ngô Tất Tố đã làm được khi ông miêu tả nhân vật chị Dậu trong tiểu thuyết Tắt đèn. Lẽ tất nhiên, mặt khác, cải nhìn bị đặt, bế tác của Nam Cao đối với hiện thực cũng là một nguyên nhân tạo nên tính chất tố cáo, phê phán gay gắt hiện thực xã hội trong những hình tương do Nam Cao sáng tạo, trong đó Chí Phèo là một thí dụ tiêu biểu.
Trong những sáng tác của Nam Cao về đề tài nông dân, số nhân vật phản diện thuộc giai cấp phong kiến thống trị không có nhiều. Nhưng chỉ với truyện ngắn Chí Phèo, ta cũng có thể thấy cái sắc cạnh, bén nhọn của ngòi bút Nam Cao khi tác giả miêu tả bọn này, mà nhân vật tiêu biểu nhất là Bá Kiến, một tên cường hảo địa chủ, ác bá điển hình.
Do giả đời đục khoét", hắn tạo được cho hắn cái địa vị “ăn trên ngồi trốc, làm quyền hành và uy lực từ chức lý trưởng, hán trở kỷ thành chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, chánh hội đồng hao, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu". Hàn "thét ra lửa", "khét tiếng đến cả trong hàng huyện". Hắn lại là một tay "cáo giả", lạc lối, từng trải trong cái "nghề" bóc lột, đàn áp nông dân. Chính hán đã thừa nhận cái sự thật kỳ lạ là : "ở cái đất nhà quê, bọn dân hiến lãnh chi è cổ làm nuôi bọn lý hảo, nhưng chính bọn lý hao, nhiều khi phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cảm dao đâm người hay đâm mình”. Và cũng chính hán đã khám phá ra cái quy luật Tin néo đứt dạy để nén con em đến nỗi nó không chịu được phá bỏ làng mà đi là dại. Mười tháng đã đi ra thì chín tháng trở về với cái về hung đồ, cái tính ương ngành học được tư phương xa. Cho nên chỉ những tên địa chủ xảo quyệt, khôn rác đời" như nó mới có thể tìm ra được những thủ đoạn lừa bịp tinh vì để bóc lột. Một người khôn ngoan chỉ hợp đến nửa chung Hãy ngăm ngăm đẩy người ta xuống sông. nhưng rồi lại đất nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn đẹp ghế đối cho được năm đông, nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hảo "Vì thương anh tùng quá".
Nam Cao cũng da vạch trần bản chất nham hiểm của Bá Kiến qua việc hán lợi dụng Chi Pheo để trừ khử các phe cánh đối địch trị không lợi thì cụ dùng. Cụ nghi bụng cũng phải có những tháng đầu bỏ chứ ? Không có những tháng đầu bỏ thì lấy ai mà trị những thẳng đầu bỏ 2. Những tháng ấy chính là những tháng được việc... Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn... Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được đội Tảo thì tốt làm. Nếu nó bị đội Tạo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì, đáng nào cũng có lợi cho cụ cả"
Ba Kiến lại là một tên địa chủ dám dáng và về mặt này, hãn có nhiều hành động đổi bạn. Hắn có nhưng bốn vợ, và hắn thông dâm với vợ hình Chức trong thời gian binh Chức di linh vắng nhà Hán cũng ghen, ghen sôi sục, và cũng đau khổ vi ghen " Han ghen với Chí Phèo và đã đẩy Chí Phèo vào vòng tu tôi. Càng về giá bán càng ghen dữ Hán đau lòng mà thấy "bà từ cứ trẻ, cứ phay phay, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi, mà sao lại đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức là Khác gì miếng thịt bò lụt sụt khi rung gần hết răng". Hán "chỉ muốn cho tất cả những tháng trai trẻ đi ở tu". Tên địa chủ già có máu để ghen với tuổi trẻ và căm thù tuổi trẻ 1
Bóc lột, hống hách, nham hiểm, gian ác, dâm đãng, sợ với ghen tuồng. hình tượng nhân vật Bá Kiến, dưới ngòi bút sắc sảo của Nam Cao rất sinh động, không đơn giản, sơ lược Bá Kiến là một nhân vật điển hình sắc nét trong văn học hiện thực giai đoạn 1930-1945.
Bá Kiến, bốn con vợ của hán (trong đó có cái "bà ba" đã từng bắt Chí Phèo bóp đùi, xoa bụng và cái "bà tư trẻ “phây phây" mà lại đa tình") và lý Cường (tháng con của Bá Kiến, "coi người như rơm như rác", "vũ dũng" nhưng vô mưu, so với Ba Kiến thì còn non và kem bản lĩnh làm), tất cả những bộ mặt bị ỏi đó là điển hình về một gia đình địa chủ, ác bá cường hào ở nông thôn, đầy tính chất thối nát.
Trước Nam Cao, đã từng có nhà văn vạch trần sự lục dục, mẫu thuẫn, tranh giành miếng ăn và địa vị của bọn cưởng hảo, địa chủ. nhất là Ngô Tất Tố trong tập phóng sự Việc làng và tiểu thuyết Tài đèn Đến Nam Cao thì quan hệ mẫu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến thông trị nông thôn được miêu tả một cách rõ rệt. Bon chúng là "một đàn cá tranh mồi" gồm nhiều vây cánh - cảnh Bà Kiến, cánh đội Tào, cánh Từ Đạm, cánh bát Tùng "Lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ, du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng vẫn ngầm ngầm chia rẽ, nhỏ từng cho hở để mả trí nhau".
Sự tồn tại của giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn cùng như mâu thuẫn trong nội bộ bọn chúng, dưới ngòi bút Nam Cao, chính là nguyên nhân này sinh và phát triển của hiện tượng Chi Phèo, binh Chức, Nam Thọ. "Năm Thọ đi phen ủy là mắt tám nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những tháng du còn 2 Nam Thọ vửa đi, lại có binh Chức ở đâu lần về. "Thế rồi binh Chức chết... "Thì nay lại nở ra Chí Phèo K
Không phải là không có lý do khi Nam Cao đầu tiên đặt cho cái truyện ngắn này của mình cái tên Cái lò gạch cũ. Hình anh cái là gạch ấy, nơi người ta đã nhặt được Chí Phèo, trong phần mở đầu của truyện ngắn, lại thấy hiện ra, ở phần kết thúc, trong ý nghĩ của Thị Nở, khi Thị nghĩ đến cái chết bất ngờ của Chí Phèo, ke da ăn nằm với thị t
”. Nói dại, nếu minh chứa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm án thế nào ?
Đột nhiên, thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua.
Thế nghĩa là cái hiện tượng xã hội đau xót và nguy hiểm do Nam Cao phát hiện đó - hiện tượng Chí Phèo - lại có nguy cơ xảy ra lần nưa. Một Chí Phèo con lại có thể ra đời, và tấn bi kịch Chí Phèo cũng lại sẽ bắt đầu diễn lại
Trong điều kiện của xã hội thực dân, phong kiến, khi người nông dân chưa được gặp cách mạng, thì hiện tượng một số người bị những thế lực thống trị đẩy vào con đường bản cùng, lưu manh, không có lối thoát, bị những thế lực này lợi dụng là một điều tất yếu phải xảy ra và hết sức nguy hiểm. Giá trị nhận thức có ý nghĩa xã hội sâu sắc đó của truyện ngắn Chí Phèo gắn liền với giá trị phê phán gay gắt, tố cáo mãnh liệt của nó.
(In trong Tạp chí Văn học, số 4, 1964)
------------------------------
(1) Nguyễn Đình Thi. Mấy vấn đề văn học, NXB Văn nghệ, 1956.
(2)Nghiên cứu văn học, số 1, 1961.
(3) Hà Minh Đức, Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất xắc.
(4) Mạo Trạch Đông tuyển tập, tập II, tr.451,NXB Sự thật
0 Nhận xét