NAM CAO TRONG NHỮNG HỒI ỨC VÀ SUY NGHỈ HÔM NAY"
LTS Ngày 25 10 1997 Viện Văn học tổ chức Hội thảo khoa học nhân số năm ngày sinh nhà văn Nam Cao 1917 1997 Tham gia Hồi thảo có những nhà văn vốn gắn gửi và thân thiết với Nam Cao các nhà nghiên cứu đã từng tìm hiểu và viết về Nam Cao cùng đồng đảo các độc giá tiền mà vẫn tài của ông. Khách mời còn có Tiên minh học Trần Ma Thiên con trưởng của nhà văn GS Hà Minh Đức Viện trưởng Viên Văn học chủ trì hội tháo. Mở đầu, GS Hà Minh Đức nói lý do và đề nghị cách thức tiến hành Hội thảo. Tiếp đó PTS Và Tuấn Anh đọc. Để dẫn khoa học Phân chính của chương trình các nhà văn, nhà nghiên cứu trình bày những suy nghĩ của mình và cuộc đời và sáng tác của Nam Cao Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu những điểm chu yếu của Để dẫn khoa học và những ý chính trong các phát biểu đó.
PTS VŨ TUẤN ANH (Đề dẫn)
Sự nghiệp sang tác của Nam Cao không dài chủ yếu là các năm 1941 - 1945, số lượng tác phẩm không đó sợ . 1 tiểu thuyết, 1 truyện dài, vài chục truyện ngắn, tuy vậy Nam Cao vẫn là một hiện tượng lớn trong văn học hiện đại Sự nghiệp và giá trị văn chương của ông sáng lên cùng thời gian. Điều này chứng tỏ chiều sâu, độ hàm súc cao, cùng nhiều tiềm ẩn của văn chương Nam Cao. Văn Nam Cao là thứ văn không với cạn, có khả năng cập vào những bến bờ mới.
Nam Cao là nhà văn được nghiên cứu nhiều nhất, liên tục nhất Trong một cuốn sách về Nam Cao do Ban Văn học hiện đại của Viện Văn học mới biên soạn phần thư mục có tới 160 tên bài báo và sách viết về Nam Cao. Hầu hết các nhà nghiên cứu văn học hiện đại đều đã viết về ông. Sau khi nhà văn hy sinh đã có một số bài viết dưới dạng tưởng niệm, hồi ức của các nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài. Từ những năm 60, việc nghiên cứu Nam Cao được khởi động với nhiều tác giả. Phong Lê, Nguyễn Huệ Chỉ với hai bài báo đầu tiên viết về Nam Cao vào tháng 8-1960. Tác phẩm Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc là cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về Nam Cao xuất bản năm 1961 đã khẳng định vai trò nhà văn chiến sĩ và giá trị hiện thực trong sáng tác của ông. Những năm 70, 80 việc nghiên cứu vẫn đi theo hướng trên, nhưng cũng đã mở rộng và khai thác sâu vào một số tác phẩm xuất sắc như Chí Phèo, Sông môn, qua công trình của các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Phong Lê. Một điểm móc đang chú ý là cuộc Hội thảo khoa học năm 1991 nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của nhà văn do Viện Văn học phối hợp với Hội Nhà văn, Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh và Trường ĐHSP I tổ chức. Có 60 báo cáo khoa học được gửi đến, tập trung khá đầy đủ những thành tựu nghiên cứu mới về Nam Cao. Cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao là tuyển chọn những bài tiêu biểu trong số đó. Năm 1997 này, đã xuất hiện một loạt những công trình nghiên cứu mới về các tư liệu, ghi chép hồi ức, chuyên khảo.
Việc nghiên cứu Nam Cao mấy chục năm qua có nhiều thành tựu và tiến bộ. Buổi đầu là nghiên cứu từ góc nhìn xã hội, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phương pháp gọi là "xã hội học" này đã đem lại những kết luận đúng đắn, cơ bản và hiện nay nó vẫn chưa hết sinh lực, nhất là với một đối tượng như Nam Cao, một nhà văn luôn sống và viết giữa đời, vì cuộc đời. Tuy nhiên người ta cũng thấy ở đó một số khiên cưỡng, gò ép. Phương pháp tiếp cận ngày càng phát triển : từ hệ quy chiếu xã hội học chuyển dần sang việc tìm hiểu sâu thế giới nghệ thuật của nhà văn ; từ phân tích theo đề tài, nội dung xã hội chuyển sang khám phá thể loại, phong cách, ngôn ngữ. Những kết luận mới xuất hiện, nhiều kết luận cũ được làm mới thêm (chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo). Tuy nhiên cũng đã thấy những khiên cưỡng áp đặt mới tử công thức sách vở, thiếu sự mềm dẻo sáng tạo.
Các tư liệu, văn bản của Nam Cao ngày càng được thu thập đầy đủ hơn. Tuy nhiên công việc vẫn cần được tiếp tục để đi tới một toàn tập Nam Cao. Về văn bản hiện cũng đang có những vấn đề. Chẳng hạn theo nhà nghiên cứu Hà Bình Trị, khi so sánh văn bản Chi Phèo, in năm 1945 trong cuốn Luống cày với bản in trong Tuyển tập Nam Cao, 1993, thì có tới 250 chỗ thừa hoặc thiếu... Cuối cùng, chúng tôi hy vọng Hội thảo này là mốc mới trên con đường nghiên cứu sự nghiệp của Nam Cao.
GS, HÀ MINH ĐỨC
Tôi xin đề nghị chúng ta nên tập trung thảo luận về vị trí và đặc điểm của Nam Cao trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ở đây theo tôi có nhiều vấn đề. Trước hết về nghệ thuật, Nam Cao đem đến một phong cách mới "khác hẳn với những cách viết xưa nay" như Lê Văn Trương tửng xác định. Nghệ thuật phân tích tâm lý cũng rất đặc sắc. GS Nguyễn Khánh Toàn có lần nói với tôi đọc Nam Cao không hổ then với văn chương phương Tây Người phương Tây rất thích van phân tích tâm lý và cho đó là đặc sắc của tiểu thuyết. Sự phân tích hiện thực ở Nam Cao cũng đặc biệt : phân tích đến cùng, dầu nhiều lúc thấy xót xa, đến mức Lê Văn Trương gọi là "một lối văn mới sâu xa chua chất và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tải mình, ở thiên chức của mình". Nhà văn Nguyễn Minh Châu về sau cũng có ý kiến tương tự nhằm ý nói về tính khách quan, sự sắc sảo của ngôi bút, chứ không phải về phương diện đạo đức. Trong nghệ thuật tâm lý, Nam Cao đã sử dụng có hiệu quả đối thoại và độc thoại nội tâm.
Đối với nội dung, chúng ta đã có thời gian dài nghiên cứu nhãn vật, hoàn cảnh, nhưng theo tôi vẫn chưa khai thác hết. Chẳng hạn với nhân vật Chi Phèo, chúng ta đã đi tử chỗ xem xét Chí Phèo như một con người bị tha hóa sau đó là bi kịch của một người không được quyền làm người. Đối với nhân vật tiểu tư sản, có ý kiến cho rằng, Nam Cao đã xây dựng theo cách chia nhỏ nhân vật ra từng mảnh để mô tả. Mỗi mảnh như vậy đều độc đáo và tổng hợp lại có một nhân vật trí thức nghèo rất đậm nét. Theo tôi, Nam Cao là nhà văn dựng hoàn cảnh thuộc loại giỏi nhất, đặc biệt là trong các sáng tác về người tiểu tư sản. Và chính sự miêu tả thành công hoàn cảnh tù túng, bế tắc, mòn vì bao vây cuộc sống nhân vật là thành công nổi bật của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao. Vây ở Nam Cao có hạn chế gì không ? Có ý kiến cho rằng đôi lúc ngòi bút nhà văn sa vào mô tả tự nhiên chủ nghĩa, nhưng sau này có người lại khen, cho rằng đấy là dụng ý nghệ thuật của nhà văn nhằm mô tả con người bị hủy hoại về nhân tính, nhân hình đến mức dị dạng kỳ quái. Họ không được làm người. Hoặc có ý kiến cho rằng văn Nam Cao kể khổ nhiều quá, đọc rất mệt mỏi... Nam Cao chủ yếu từ một làng quê viết về người nông dân, từ một vài cuộc đời tri thức viết về người trí thức nghèo. Điều đó có khỏi hạn chế tính khái quát trong bức tranh về thời đại ?
NV. TÔ HOÀI
Tôi viết về Nam Cao cũng đã khá nhiều, cũng đề cập nhiều mặt ca cuộc đời lẫn sáng tác, qua hình thức các câu chuyện về những kỷ niệm. Hôm nay, tôi muốn nói rõ thêm vài vấn đề. Trước hết là mày điều nhỏ nhỏ sau : Việc Nam Cao đi Nam tiến, thì thực ra là đi theo tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Nguyễn Sơn vào Nam rồi về chứ không phải đi bộ đội Nam tiến. Tướng Nguyễn Sơn vào nhận chức Tư lệnh quân khu V, còn Nam Cao lúc đó là đặc phái viên của Văn hóa cứu quốc. Về bút hiệu Nam Cao thi không phải hàm ý phía nam của tổng Cao Đã như có người đã viết, mà là Nam Sang (tên huyện trước kia) và Cao Đà.
Tôi quen Nam Cao quãng năm 1939 - 1940, khi tôi đến học tiếng Pháp ở trường Công Thanh nơi anh được thuê làm hiệu trưởng. Sau trường bị Nhật chiếm làm chỗ coi ngựa, nên Nam Cao về Nghĩa Đô ở với tôi. Lúc ấy tôi cũng mới viết được chút ít, còn Nam Cao thì thậm chí vẫn chưa rõ là có viết được hay không. Chúng tôi, những văn sĩ ngoại ô chả quen ai, cũng chẳng ai để ý. Vậy là khoảng những năm 1940 - 1945, Nam Cao khi thì ở Nghĩa Đô với tôi, khi thì về ở quê. Trước Cách mạng mấy tháng. Nguyễn Huy Tưởng mới Nam Cao làm báo Tiên phong Nam Cao đang làm báo Tiên phong thì chuẩn bị kháng chiến. Lúc đó anh chưa thuộc phiên chế chính thức của tổ chức nào nên không được đi kháng chiến, phải về quê. Năm 1947, tôi đề nghị với anh Xuân Thủy mới Nam Cao lên làm báo Văn hóa cứu quốc. Từ đó đến khi anh đi công tác ở khu Ba rồi hy sinh, chúng tôi sống cùng nhau. Vậy là chúng tôi sống cùng nhau ở hai thời kỳ. Có mấy điều đáng lưu ý : Trước hết là về cuốn Sống mòn. Lúc đầu Nam Cao đặt tên là Chết mòn. Khi viết xong. Nam Cao đưa tôi giữ cho đến khi chúng tôi cùng làm báo Cứu quốc. Lúc đó NXB Cứu quốc đã chuẩn bị in. Theo gợi ý của anh Xuân Thủy, Nam Cao đổi tên sạch thành Sông món Sau lại chưa in được, và tôi giữ cho đến khi hòa bình. Về Hà Nội, tôi làm Giám đốc NXB Hội nhà văn mới đưa in. Máy trang cuối mối xong hết nên tôi viết bổ sung vào
Nam Cao có nhiều bút hiệu. Nhiều Kha (một bài thơ trào phúng trên báo Ngày nay Thủy Ra (một số truyền, ký trên Hà Nội tấn văn), Nguyệt (tên một cô học trò của anh) và kỳ Nam Cao từ sau khi gặp tôi. Tôi là Tổ Hoà (Tô Lịch, Hoài Đức) thì anh la Nam Cao (Nam Sang. Cao Đài. Về tác phẩm thì các truyện anh viết ở quê tôi không rõ lắm, còn những truyện khác thì tôi biết anh viết rất thật Giờ tôi còn nhớ được những truyện nào anh viết về ai đầu thật, đến cả chiếc là tre, là duỗi Truyện Xem bói chẳng hạn. Đó là lần chung tôi đi xem bởi Kế ở Nam Định. Sự việc từ đầu đến cuối anh kế thực cả, chỉ thêm một chi tiết cuối nhân vật đi xem bói được thay nói rất tốt nhưng ra về thì bị xe cán chết.
Có đôi điều nói lại và nói thêm như vậy, tôi mong có chút gợi y nào đó cho những người làm nghiên cứu Nam Cao
NT. THỢ RÈN
Tôi biết Nam Cao từ hồi anh đi học ở Nam Định Nam Cao hơn tôi 5 tuổi, khi anh ra trường rồi tôi mới vào. Nam Cao đỏ Đip-lôm nhưng chiến tranh áp đến, gia đình phá sản, các em không được đi học. Anh rất thương gia đình và hay nghĩ ngợi. Nam Cao cũng là người rụt rè, kỷ tỉnh, khi đến tôi chơi ngôi vào ghế cũng ngại ngùng Cứ hỏi đến chuyện văn của anh là anh lại nói rằng minh đang luyện, rồi nói làng sang chuyện khác, toàn nhưng chuyện đói khổ, rằng năm nay bão gió nhiều, nhân rụng hết, chưa biết lấy gì ăn. Các nhân vật nông dân trong truyện của anh hầu hết có thật ngoài đời Nhân vật nông dân của Nam Cao từ trẻ lên ba, đến người gia, đàn ông, thiếu nữ, đều có số phận, đọc lên thấy đa đoan, đau xót. Văn Nam Cao là tiếng đoạn trường Đọc Nam Cao thấy cuộc sống, con người cứ chật vật, vất vả, không lúc nghỉ ngơi, cũng chẳng có một thoáng chốc như Dưới bóng hoàng lan của Thạch Lam. Những nhân vật trong một cuộc sống như vậy tất sẽ dẫn đến cái kết thúc như lão Hạc, Chí Phèo. Tôi cũng muốn nói thêm rằng nhân vật Chí Phèo trên sân khấu, điện ảnh và trong cách vì von ngoài đời hiện nay, khác xa với nhân vật Chí Phèo của Nam Cao.
NV. KIM LÂN
Tôi chỉ xin được nói một câu thôi. Trong thời kỳ kháng chiến, tôi biết có một nhà văn ma Nam Cao rất khen, do là Vũ Bang Đề nghị các nhà nghiên cứu lưu tâm.
TS. TRẦN MẠI THIÊN
Tôi xin thay mặt gia đình cảm ơn Viện Văn học, Ban tổ chức và tất cả các bác, các anh chị em có mặt hôm nay. Gia đình hết sức vui mừng, cảm động và tự hào bởi sau nửa thế kỷ cụ thân sinh tôi mất, những sáng tạo văn hóa nghệ thuật của cụ vẫn được trận trọng. Tôi là người ngoại đạo, không nói được gì nhiều, chỉ xin cung cấp một tư liệu. Theo quan niệm của gia đình thì năm sinh của cụ là 1915 chứ không phải 1917. Tôi biết có những ý kiến khác nhau về điều này. Tài liệu chính thức của Hội Nhà văn ghi là năm 1917. Trong Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô, mục Nam Cao ghi cụ mất năm 36 tuổi, chứ không phải 34 tuổi như tài liệu chính thức của ta Gia đình cũng có cảm nghi như vậy, tức cho rằng cụ mất vào 36 tuổi tây và 37 tuổi ta
GS. PHONG LÊ
Bai viết đầu tiên của tôi về Nam Cao (cùng viết với Huế Chi đăng ở Tạp chí Văn nghệ số tháng 8 năm 1960 Từ bấy đến nay tôi vẫn thường đọc, viết và nghiền ngắm về Nam Cao.
Ở tư cách người nghiên cứu càng theo thời gian tôi càng nhận rõ thêm các giá trị của Nam Cao. Chỉ riêng Chí Phèo và Sống món cũng đã đem lại một cái gì thật mới, thật riêng cho văn học thời kỷ 1941 – 1945. Đó là thời kỳ cuộc sống của dân tộc vừa bị dồn đến chỗ cùng của đói, chết; vừa khẩn trương hưởng tới cách mạng. Nội gon lại, như trước đây ta thường nói là đi vào bé tác. Cuộc sống thì bế tác, thể nhưng nghệ thuật lại không hoàn toàn đi vào bế tác. Nam Cao là một ví dụ. Cùng với Nam Cao còn cả một lớp người viết cũng đều biết cách trổ ra những lỗi khác để tồn tại, và nhận diện thực tại. Sống môn và Bướm trắng là một hướng phát triển mới của tiểu thuyết, không còn là sự lập lại mô hình tiểu thuyết cũ những năm 30 Hoạt động của phê bình, khảo cứu văn học càng chứng tỏ điều này
Ở tư cách một người đọc binh thường, tôi là người rất mê Nam Cao Bởi, sau tất cả mọi sự hấp dẫn, còn là ở văn, theo tôi, van Nam Cao là thứ văn được viết rất kỹ. Đến với Nam Cao tôi gần như được hưởng cái thủ đọc mà không bỏ sót bất cứ trang nào, dòng nào. Đó là điều có khác với nhiều tác giả trước ông hoặc đồng thời với ông . - đương nhiên cả sau ông, có người viết cực kỳ xuất chúng. nhưng những gì họ để lại không phải có thể đọc tất cả, thậm chí có thể quên đi một phần, hoặc một nửa Tôi "nghiện" đọc Nam Cao. với nhu cầu chiêm nghiệm các ý tưởng của Nam Cao - cùng với cách thể hiện và dẫn dắt chúng - , thể nghiệm câu văn và cách việt Nam Cao, trong lúc nội dung tất cả những gì Nam Cao viết gần như đều đã thuộc cả rồi. Nói cách khác đọc ông không phải chỉ để biết "nội dung - và đó mới là "bí quyết" cho một sự hấp dẫn thật sự dài lâu. Trong nghề viết, tôi mong có các bậc thầy; và từ lâu tôi đã chọn Nam Cao, cũng Nguyễn Tuân và Hoài Thanh (trong phê bình, nghiên cứu) làm những người thầy mẫu mực cho nghề nghiệp...
PTS. HOÀNG NGỌC HIẾN
Một số suy nghĩ về Nam Cao của tôi đã từng được thể hiện trong bài nghiên cứu Về chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa hiện thực Tôi xin nói rõ hơn về hoàn cảnh ra đời của những suy nghĩ này. Nó xuất phát tử việc tôi tìm hiểu quan điểm của Marx về chủ nghĩa nhân đạo Trong vấn đề lớn này có vấn đề lý tưởng nhân văn của Marx Tôi thấy ở Marx và Engels có ý rằng nói lý tưởng nhân văn là nói yêu cầu và ước vọng về con người. Yêu cầu và ước vọng cao nhất của Marx và Engels về con người là yêu cầu về phát triển năng lực Theo Mars thì phải tạo điều kiện để con người phát triển được năng lực. Ông cũng mô tả rằng chỉ có một số ít người có được điều kiện đó, còn đa số buộc phải vật lộn để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày nên bị tước bỏ mọi khả năng phát triển. Với tôi đó là một phát hiện quan trọng, vì chủ nghĩa nhân đạo truyền thông của ta chỉ nặng về tình thương. Nhưng còn bất ngờ hơn khi tôi thấy ở Sống mòn của Nam Cao cũng có những ý kiến như vậy. Trong Sống mòn, day dứt của Thứ là, sống phải làm thế nào để những năng lực của loài người chứa đựng ở mỗi người được phát triển tận độ. Đó là chủ nghĩa nhân đạo của Nam Cao. Còn một vấn đề nửa. Ta hãy chú ý đến đoạn đối thoại giữa Thứ và Sang. Thứ hỏi : "Nếu gia đình anh có cách sinh nhai chắc chắn rồi, anh có thể chỉ nghĩ đến anh thôi, thì anh sẽ làm gì? Sang trả lời : "Tôi học vẽ ! Tôi thích vẽ ngay từ khi 13, 14 tuổi. Giá tôi được học, tôi cũng có thể thành hoa sĩ". Vậy là ngay ở một con người phàm tục như Sang, Nam Cao cũng không nở tước bỏ khát vọng nhân văn, khát vọng phát triển năng lực Theo tôi, để có một quan niệm đầy đủ về chủ nghĩa nhân đạo, cần trở lại những từ tưởng rất lớn của Mars, và ở ta nó được phát biểu đầu tiên bởi Nam Cao.
GS. TRẦN ĐÌNH SỬ
Suốt từ năm 1960 đến nay, các nhà văn, nhà nghiên cứu, các học trò của chúng ta luôn yêu mền Nam Cao, luôn thấy ở tác phẩm của ông còn một cái gì đầy bí ẩn, chưa hiểu hết, điều đó nói lên rằng, chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực của văn học ta trước Cách mạng tháng Tám vẫn sống rất lâu bền. Ở Việt Nam, chưa có phương pháp sáng tác nào được yêu mến lâu bên và gãy hứng thú tìm hiểu như thế. Điều ấy có ý nghĩa rất lớn. Việc tìm hiểu lại chủ nghĩa hiện thực hiện đang là một xu hướng. Nó chứng tỏ ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện thực có giá trị lớn lao.
Cái mới của Nam Cao là ở chỗ nào ? Theo tôi, chủ nghĩa hiện thực tự nó luôn phát triển, tử Nguyễn Công Hoan đến Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng rồi tới Nam Cao luôn diễn ra những tìm tòi mới về con người. Điều ấy làm cho tiếng nói của văn học trở nên sâu sắc và phong phú hơn. Nguyễn Công Hoan chú ý miêu tả con người bị tha hóa. Trái lại ở Ngô Tất Tố trong Tắt đèn thì con người không hề và không thể bị tha hóa. Nhân vật của Nam Cao cũng bị tha hóa bởi hoàn cảnh, nhưng ở nó vẫn luôn tồn tại một tỉnh người bền vững, không hề bị tha hóa Nam Cao tìm đến một cách hiểu về con người rộng rãi nhất, sâu sắc nhất. Nam Cao luôn mô tả trạng thái tồn tại của con người, làm cho con người ý thức được trạng thái tồn tại của chính mình, từ đó mà vươn lên. Ông không chỉ chú ý đến tư tưởng, tình cảm của con người mà rất coi trọng mô tả trạng thái sinh lý của con người, những cơn giận, sự cầu bắn... Bằng tác phẩm, nhà văn dưởng như muốn nói với chúng ta rằng hãy chú ý đầy đủ đến trạng thái tồn tại của anh, để từ đó mà đi lên. Nam Cao cũng là nhà văn trăn trở nhiều về vấn đề đối mới đời sống, và đặt vấn để làm sao để thay đổi Theo tôi, việc nghiên cứu Nam Cao có ý nghĩa lớn đối với tiền đó phát triển của văn học chung ta
PGS. NGUYỄN HOÀNH KHUNG
Tôi xin tiếp ý kiến của anh Trần Mai Thiên vừa phát biểu Tài nghỉ đã đến lúc chúng ta cần thống nhất vấn đề năm sinh Nam Cao tránh sự nhiều không cần thiết.
Suy nghĩ về Nam Cao, tôi có mấy nhận xét sau đây. Nam Cao bước vào làng vẫn chặt vật, cũng là người được đánh giá chấm Le Văn Trường phát hiện và giới thiệu Nam Cao đầu tiên, nhưng có lẽ ông cũng chỉ thích cốt truyện và cách viết của Đội lửa xứng đôi, chư chưa hiểu tư tưởng Nam Cao. Sau Cách mạng, một thời gian dài nhà văn cũng chưa được đánh giá cao. Tại sao vậy ? Có thể lúc ấy người ta coi chủ nghĩa hiện thực của Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng là mẫu mực, vì nó rất tương hợp với công thức của Engels về chu nghĩa hiện thực, trong khi đó Nam Cao lại viết khác. Chẳng hạn trong Sống mòn rõ ràng là không thể hiện "màu thuần cơ bản của thời đại. Tuy nhiên vị trí của Nam Cao ngày càng được khẳng định và giờ đây chúng ta có thể nói rằng ông thuộc vào số những nhà văn lớn nhất thế kỷ XX của Việt Nam. Phong cách của Nam Cao giai đoạn 1941 - 1945 kết tinh phong cách thời đại. Nhiều yếu tố của cách viết, chủ đề trong sáng tác của Nam Cao có thể thấy ở Tổ Hoai, Bùi Hiển, Nguyên Hồng lúc đó. Tôi cũng nhất trí rằng thanh tựu của Nam Cao có tính chất định hướng con đường phát triển văn học về sau. Vị trí văn học sử của nhà văn hết sức lớn
Tại sao Nam Cao chỉ viết về những điều binh thương, hàng ngay quanh mình mà tác phẩm lại lớn và có sức sống như vậy ? Tôi cũng nghĩ như Nguyễn Khai . "Vi Nam Cao sống đến tận đáy cuộc sống Thêm nữa, tôi còn nghĩ rằng Nam Cao đã chiếu vào đời sống ấy một tư duy mới, làm bật lên những chân lý cuộc đời và con người.
GS. HÀ MINH ĐỨC
Tôi nghiên cứu Nam Cao cũng đã lâu Năm 1961 đã cho in một cuốn sách về Nam Cao. Tôi biết ơn anh Tô Hoài đã tin cậy vào tuổi trẻ của tôi lúc đó và giúp đỡ tôi trong công việc. Khi ấy nghiên cứu Nam Cao rất vất vả vì rất ít tư liệu. Hiện nay tư liệu về Nam Cao cũng vẫn chưa tìm được hết. Tuy nhiên, tôi nghĩ giờ đây việc sưu tầm tư liệu vẫn là cần thiết nhưng quan trọng là cách suy nghĩ và phát hiện. Sự nghiệp của Nam Cao còn nhiều tiềm ẩn. Tôi tin rằng với mỗi cách tiếp cận mới lại sẽ làm xuất hiện những điều mới mẻ, Phải làm sao xác định được phong cách của Nam Cao Nam Cao không cũ đi mà luôn mới mẻ và ở giữa chúng ta. Ngay về ngôn ngữ, dường như ai cũng thừa nhận là hiện đại, nhưng cơ sở lý luận để phân tích còn chưa rõ nét.
Cuộc Hội thảo hôm nay theo tôi nghĩ là rất tốt, bởi chúng ta đã tiến hành theo hình thức trao đổi, để từ đó làm nảy sinh những ý kiến thống nhất và khác biệt. Nam Cao đã được nghiên cứu nhiều và kỹ, nhưng các vấn đề đang đặt ra vẫn còn là những thử thách đòi hỏi sức suy nghĩ của các nhà nghiên cứu văn học. Chúng ta đã xác định được vị trí của Nam Cao trong nền văn học nước nhà. Nam Cao là một trong những nhà văn lớn của thế kỷ XX, lớn về đời văn, lớn về sức sáng tạo, về nhân cách. Vấn đề lớn mà nhà văn day dứt bàn luận sâu sắc nhất chính là vấn đề con người. Thân phận của con người, nỗi đau khổ tủi nhục của con người trong cuộc đời cũ Phải trân trọng yêu thương và góp phần thay đổi hoàn cảnh để giải phóng cho con người, cho sức sáng tạo và hoàn thiện nhân cách của con người. Nam Cao đã nói lên sâu sắc nhất vấn đề của con người, của thời đại. Nam Cao là nhà văn trung thực, nhà văn chiến sĩ, nhà văn liệt sĩ. Việc phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho tác giả đã chứng minh cho sự đánh giá cao của xã hội, của Đảng và Nhà nước đối với một nhà văn từ lâu đã nhận được sự yêu mến của bạn đọc
TBĐ lược thuật (In trong Tạp chí Văn học, số 11, 1997)
0 Nhận xét