NAM CAO _ NHÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO LỚN

 NAM CAO -NHÀ VĂN HIỆN THỰC XUẤT SẮC, NHÀ NHÂN ĐẠO CHỦ NGHĨA LỚN

Trần Đăng Xuyền

 

 

Nam Cao (1917 - 1951) là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuất hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khác nghiệt của thời gian, cảng thử thách lại càng ngơ sáng Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông lại cang bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẽ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

 

1 Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bụt có ý thức sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính chất thoát lỵ, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là thứ "ánh trăng lừa dối", đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động làm than (Trăng sáng).

 

Xuất hiện trên văn đàn, khi mà trảo lưu hiện thực chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng "Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Đời thừa). Và Nam Cao đã thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Nếu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố - những nhà văn hiện thực xuất sắc thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939) đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác của Nam Cao - đại biểu ưu tú nhất của trào lưu hiện thực chặng đường cuối cùng (1940 - 1945), trở truyền ngắn Chí Phèo (mà theo tôi là dư âm còn sót lại của thời kỳ 1936 – 1939) trực tiếp để cấp tới xung đột giai cấp, còn các tác phẩm khác đều tập trung thế hiện xung đột trong thế giới nội tâm của nhân vật. Hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc bấy giờ không tạo điều kiện cho Nam Cao đi tháng vào nhưng vấn đề cấp bách nhạt của xã hội, không trực tiếp miêu tả những sự kiện có ý nghĩa xã hội lịch sử rộng lớn. Nhiều tác phẩm của ông được dệt nên bằng toàn những "cái hàng ngay chu yếu liên quan đến cuộc sống riêng tư của các nhân vật, nhưng sự việc vật vành nhỏ nhoi, tin mùa mà nhà văn gọi là những chuyện không muốn viết". Chưa bao giờ cái vật vành hàng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác của Nam Cao Chỉ có tiếng con khóc, từng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ Điển đang nhởn như trên chín tầng mây với ánh trăng giống như "cái vú mộng tròn đây xuống mặt đất với biết bao cực khổ lầm than (Tràng sang) Miếng cơm, manh áo hàng ngày cùng với những xích mích vật vãnh, những ghen tuông vớ vẫn, những đố kỵ nhỏ nhen cũng dư thừa sức mạnh không chế, giam cầm chung thần mấy anh giáo khổ trường từ trong cái ao tù ngột ngạt của những kiếp Sống mòn Cả lý tưởng nhân đạo cao cả, cả hoài bảo nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ chết môn trước sự tấn công quyết liệt, dai dẳng và tàn bạo của cái đời (Đại thừa), vv... Tử những chuyện vụn vặt đời thường, Nam Cao đã thực sự động chạm đến vấn đề có tính chất nhân bản, đã đặt ra những vấn đề sâu sắc về cuộc sống, vẽ thần phân của con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bi kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh hàng ngày, qua ngòi bút đây tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh cửu.

 

Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý Điều đó có quan hệ mật thiết tới quan niệm về con người của ông Nam Cao viết trong Sống mòn . "Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ : có cảm giác, có tư tương mới sinh ra hành động". Một quan niệm về con người như thế đã chi phối thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới bên trong của con người đã thưởng (xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật ngày càng tăng của nhà văn đối với tính chất nhiều dự định của cả tính con người, động cơ nội tại của hành vi nhân vật và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.

 

Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật Xét cho tới cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cả tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thù của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như một nguyên tắc các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò "khiêu khích" các nhân vật, để cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong Mua nhà, Nam Cao không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu vào nhưng suy nghĩ dân vật, những ân hận, giày và của nhân vật người kể chuyện về tình trạng "hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hợp. Người này có thị người kia bị hở". Đại thừa cũng không hướng ngòi bút vào việc miêu tả nơi khô áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Cho nên, trước khi bán một con chó mà lão Hạc phải trải qua biết bao bản khoản, day dứt, dẫn vật, và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng ăn hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như con nít. Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu rạch mặt, chửi bởi, dọa nạt trong lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ sông, Chí Phèo cứ "văn và nghĩ mãi. Còn Thị Nở, người đàn bà vô tâm có cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường định ngủ hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi, thị "cứ lan ra lăn vào", v.v... Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt nhất mà còn theo dõi, phân tích quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khác, Nam Cao đã miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mẻ gianh giới giữa thiên với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật... Nam Cao đã khắc phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách phong phú, đa dạng với nhiều sắc thái tỉnh vĩ

 

Trong sáng tác của Nam Cao, tâm hồn con người là sản khấu bị kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao thích ứng với việc nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý của nhân vật hơn là việc phân tích và miêu tả nhưng biển cổ, xung đột đích thực của chính bản thân đời sống xã hội. Đối với Nam Cao, sự phân tích tâm lý hầu như là điều kiện cơ bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu của ông Nam Cao đã lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người, miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm thể hiện và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật. Những cảnh vật thiên nhiên cùng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con người. Giữa những bức tranh phong cảnh thoáng nhìn tưởng chỉ thuần túy những cảnh vật thiên nhiên, nhà văn đã khéo léo treo lên những mảnh tâm hồn của nhân vật.

 

Nam Cao mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề rộng mà là ở bề sâu. Thoát khỏi cách nói chút ít về tất cả, ông đã tập trung bút lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Nhà hiện thực chủ nghĩa Nam Cao đã mở rộng việc phản ảnh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Qua ngòi bút ông, thế giới bên trong của con người, kế cả những "con người nhỏ bé, thậm chí cả những kẻ khốn khổ tui nhục nhất như Chí Phèo và Thị Nở cũng là cả một vũ trụ bao la Đối với Nam Cao, việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc phân tích cuộc sống xã hội nói chung. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng phân tích mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói, cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao. Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn", "cốt tuy chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.

 

Cái góc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa nhân đạo. Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao khẳng định : "Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công binh... Nó làm cho người gần người hơn". Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, chủ nghĩa nhân đạo được đặt ra như một yêu cầu tất yêu đối với những tác phẩm "thật có giá trị

 

Trong môi trang văn của Nam Cao đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau đời và thương đời da diết. Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đọa. Xã hội cũ đã làm cho ông đau xót khi mà đa số những nhân vật của ông bị đẩy vào cảnh khốn cùng, không đạt được gì trong cuộc đời, không có đủ điều kiện để phát huy những khả năng tiềm tàng ưu việt của mình.

 

Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân - phong kiến. Trái tim nhân đạo và cái nhìn sắc sáo của ông đã thấu hiểu những hoàn cảnh thiếu nhân tính làm cho con người bị tha hóa. Viết về những con người dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã bộc lộ sự cảm thông lạ lùng của một trái tim nhân đạo lớn. Thế giới, cuộc đời, con người, mối quan hệ giữa những con người được nhìn nhận bằng những con mắt của chính họ. Nhà văn, trong những đánh giá và nhận xét, đã xuất phát tử lợi ích và yêu cầu của chính những con người cùng khổ nhất, không có quyền, bị xã hội áp bức, chà đạp xuống tận bùn đen. Nam Cao đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, "chiêu tuyết" cho những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bị một cách bất công. Với trái tim đầy yêu thương của mình, Nam Cao vẫn tin rằng trong tâm hồn của những người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn nhận tính, vẫn còn những khát khao nhân bản. Ông nhận ra đằng sau những bộ mặt xấu xí đến "ma chê quỷ hờn" của Thị Nở (Chí Phèo), của mẹ Lợi (Lang Rận), của Nhi (Nửa đêm), v.v... vẫn là một con người một tâm tính người thực sự, cũng khao khát yêu thương, cũng mong muốn hạnh phúc đời thường. Và khi được ngọn lửa tình yêu sưởi ẩm, những tâm hồn tưởng chừng đã cần cỗi, khô hóa ấy cũng ánh lên những vẻ đẹp với những hồi hộp, vui mừng, sung sướng, cũng lướm, cũng nguýt, cũng âu yếm, cũng e lệ, làm duyên theo kiểu cách riêng của họ. Thậm chí, trong đáy sâu tâm hồn đen tối của một kẻ cục súc, u mê như Chí Phèo - một kẻ đã bị cuộc đời tàn phá, hủy hoại tử nhân hình đến nhân tính - nhà văn vẫn nhìn thấy những rung động thật sự của tình yêu, của niềm khao khát muốn trở lại làm người lương thiên. Có thể nói, cùng với việc lên án gay gắt những thành kiến, định kiến tồi tệ, những sự nhục mạ danh dự và phẩm giá con người, chính việc phát hiện ra cái phân con người còn sót lại trong một kẻ lưu manh, trận trọng những khát khao nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của nhưng tâm hồn tưởng chứng đã bị cuộc đời làm cho cần cối, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong số những nhà nhân đạo lớn nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam

 

Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp sống môn" có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyên áo cơm ghì sát đất. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao đều là sự trả ơn, gửi gam ân tình với người nghèo khổ thì mỗi trang viết về đề tài người trí thức đều chứa đựng tâm sự, nổi đau và niềm khát khao cháy bóng của chính nhà văn.

 

Nam Cao giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm với nhưng kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, sống mòn mỏi, lắt lay, quẩn quanh, bé tác. Những con người không hề biết sống làm vui, không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong ước mơ mà vẫn cứ quân quanh không biết mơ ước gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện nghèo (Thạch Lam Hai đứa trẻ). Xuân Diệu cũng không sao chịu nổi “nổi đìu hữu của cái ÁO ĐỜI bang phong" (Tỏa nhị kiểu) và khao khát : Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt - Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Giục giã). Nhưng có lẽ, không ai trong số họ lại đau đớn khôn nguôi, phẫn uất cao độ như Nam Cao trước tình trạng con người không sao thoát khỏi cảnh sống mòn. Trước Cách mạng, không có nhà văn nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm triết lý, tổng hợp khái quát cao về tình trạng chết mòn của con người như nhà văn lớn Nam Cao. Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống mon, một cách chết mòn. Một cuộc sống vô lý, vô ích, vô nghĩa, "chết mà chưa làm gì cả", "chết trong lúc sống", "chết mà chưa sống. Nam Cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng của con người "Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào da dày ?". Cuộc sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của Nam Cao, là phải có đời sống tinh thần cao đẹp, song với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát từ tư tưởng cao sâu đó, Nam Cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn vô hạn trước bị kịch của những con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như một kẻ vô ích, một người thừa" "Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ một ?" (Đời thừa).

 

Qua những nhân vật tri thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ, những Thứ ... Nam Cao thể hiện niềm khao khát một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc, mãnh liệt, có ích và cả ý nghĩa Hộ trong Đời thừa hằng tâm niệm : "Kẻ mạnh không phải là kẻ giảm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác lên trên đôi vai mình” và mơ ước viết được một tác phẩm thật sự có giá trị (...) làm cho người gần người hơn". Thư trong Sống mòn đã từng "thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội ngay" và mong muốn đem "những sự đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình". Hơn một lần thử mơ ước "Mình cũng là một vì nhân, một anh hùng vượt lên bên trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vì đại thôi Y nghĩ đến những phương kể để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho người với người ổn thỏa hơn" Những con người mang hoài bão lớn ấy khi chạm trán với cuộc đời đều ném trải đắng cay, đau đớn, đều lâm vào tình trạng "sống mỏn" Nhưng dấu bị "ào cơm ghì sát đất", tuy "sống môn" nhưng họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết niềm tin, niềm hy vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển. Vẫn khao khát mỗi cá nhân được phát triển "đến tận độ" để góp vào "công việc tiến bộ chung" của loài người cao cả và đẹp đẽ biết bao lý tưởng nhân văn của Nam Cao được gửi gắm qua những dòng suy ngẫm của nhân vật Thứ về sự sống : “Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì cao đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại". Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao ý thức cá nhân, sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời đâu chỉ một chiều là tranh thủ từng giây từng phút để tận hưởng những khoảnh khắc đang có, cho "chếnh choáng mùi thơm", cho "đã đầy ánh sáng, cho "no nê thanh sắc của thời tươi" (Xuân Diệu) Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của cả xã hội loài người. Có thể nói, tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt Nam trước Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài thời đại Nam Cao.

 

Có thể nói, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao. Ông là nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận độ tài năng của con người. Tư tưởng nhận đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo những thế lực tàn bao chả đẹp quyền sống của con người mà còn đòi hỏi xã hội tạo những điều kiện để con người được sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

 

5-1998

(In trong Tạp chí Văn học,số 6, 1998)

 

 

 

 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét