NAM CAO VÀ SỰ LỰA CHỌN MỘT CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC MỚI
Phạm Xuân Nguyên
Khoảng thời gian Nam Cao xuất hiện và trở thành là Nam Cao văn xuôi Việt Nam hiện đại đang đi hết một giai đoạn phát triển của nó. Sau ba mươi năm đầu thế kỷ chuẩn bị và tập dượt viết văn bằng chữ quốc ngữ theo quan niệm, phương pháp và thể loại của văn học phương Tây, đến những năm ba mươi, văn học Việt Nam đã có thể tách ra hai dòng lãng mạn và hiện thực cùng tiếp nối phát triển với quy luật gia tốc của lịch sự. Ở các tác giả tiêu biểu của cả hai dòng đều đã có những tác phẩm định hình làm nên gương mặt của họ và tạo nên tính cách của dòng. Khái Hưng . Hồn bướm mơ tiên (1933). Nửa chừng xuân (1934). Thạch Lam . Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938). Nguyễn Công Hoan . Kép Tư Bền (1935), Bước đường cung (1939). Vũ Trọng Phụng. Giông tố, Số đó, Vỡ đê (cả ba cuốn đều ra năm 1936). Nguyên Hồng : Bi và (1936), Những ngày thơ ấu (1939). Ngô Tất Tố . Tắt đèn (1939)
Trong khung cảnh đỏ Nam Cao có vẻ như là người đến sau. Vậy mà bằng những tác phẩm viết ra lúc đó ông đã chứng tỏ cho đương thời và cả về sau này thấy ông không đến muộn so với các đồng nghiệp. Ở một số mặt nhất định, ông còn vượt hơn họ và tỏ ra hiện đại hơn. Cái gì đã tạo nên thành công vượt bậc ấy ?
Hoàn cảnh xã hội - lịch sử ở đây có vai trò nhất định trong việc hình thành nên nhà văn Nam Cao nhưng bài này không nói tới điều đó. Chúng tôi muốn theo dõi quá trình Nam Cao đi tìm một chủ nghĩa hiện thực mới, hoặc cũng có thể nói là quá trình lựa chọn vào nghề của Nam Cao. Điều này sẽ soi sáng ý thức nghệ thuật của nhà văn và lý giải vì sao Nam Cao lại trở thành Nam Cao như là tác giả của một kiểu chủ nghĩa hiện thực khác trong văn học Việt Nam có nhiều nét tương đồng với chủ nghĩa hiện thực cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX trong văn học thế giới.
Trong lời giới thiệu cho Nam Cao - Tác phẩm nhà nghiên cứu Hà Minh Đức viết. Trong những ngày soi nổi của tuổi trẻ lớn lên. cũng như buổi đầu đến với văn học Nam Cao làm một số thơ lãng mạn và viết nhưng truyện tình thơ mỏng Ở thời kỳ này ngòi bút Nam Cao đang dò dẫm để tìm một lối đi tâm hơn Nam Cao đăng dẫn đổi thay để có được một cách nhìn đúng dẫn cuộc sống Quá v, ảnh hưởng của văn chương làng mận là có trong văn Nam Cao lúc mới bắt đầu viết văn. Có hẳn một truyện Những canh hoa tan – kể về một mối tình trong trẻo và cảm động buổi xuân thời viết theo đúng phong cách lãng mạn, từ cái đầu để từ nội dung truyền đến giọng văn êm dịu, nhẹ nhàng và một tinh cam man mác buồn.
Nhưng ảnh hưởng lăng man đối với Nam Cao qua rất nhanh Sau này, khi Nam Cao đã viết văn hiện thực hoàn toàn rồi thì lớn văn có hơi hưởng Tự Lực văn đoạn kiểu "Lòng tôi buồn như một "con chim lạc vào cũ lúc chiêu tham cho đất trở thành menh mong (Cai mặt không chơi được chí còn mang ý nghĩa là một cách nhạc bảng, đua cợt. Ông có y thức chống lại lối viết này bằng cách viết những truyện nhại (Parodie). Hình thức nhai trong văn học thường xuất hiện khi có nhu cầu phá bỏ những cái đã lỗi thời để tìm đường phát triển cái mới. Các nhà văn hiện thực trước Nam Cao không có y thực về điều nay Nguyễn Công Hoan khi viết tiểu thuyết Cô giáo Minh (1936) là đã bắt chước viết theo kiểu lãng mạn de luận chiến lại từ tương và lễ giáo của các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn chứ không phải là nhại tiểu thuyết lãng mạn. Tác phẩm nhạc thương được xây dựng trên sự có ý làm sai lệch về các phương diện phong cách để tại của hình thức nghe thuật. Có hai kiểu nhại một là đối tượng tháp được trình bay bằng phong cách cao và hai là đối tương cao được trình bay bảng phong cách tháp Nam Cao nhai truyền lãng mạn chủ yếu là nhai nội dung và sử dụng cả hai kiểu nhại. Truyền tinh nhai theo kiểu thứ nhất, viết dưới dạng truyện trong truyền" Câu chuyện một đôi yêu nhau rồi trả thu nhau được kết lại bằng lợi nhân vật chính, cũng tức là tác giả thiên truyền đó như sau : "Tôi xu thang em Kha mách mẹ ba mẹ chứ Kha một trần nên thân rồi bà bất Kha bỏ học ở nhà buôn bán. Chúc con bé chửa thầm mình ghê lắm, bởi nó không chứa vào tận mặt tôi được nửa : tôi dọn đi chỗ khác. Nhưng nếu kẻ dùng như vậy, thì truyền có một tính cách tầm thường lắm. Vay tôi sẽ viết : tôi hy sinh tinh yêu và hạnh phúc vì năng.". Truyền Trang sáng có một phần nhai theo kiểu thứ hai. Tiêu biểu nhất cho loại truyện nhại của Nam Cao là Một truyện xu-vơ-nia Tư cái đấu để truyện đã mang tính chất nhại. Giống như lão Hidalgo Đôn Kihôtê của Xecvantex đầu óc mà mẫn tiểu thuyết hiệp sĩ nên nhìn đấu, làm gì cũng nghĩ như sách, nhân vật Hàn trong truyện này của Nam Cao cũng thám đầm tâm hôn bởi các tiểu thuyết lãng mạn. Cho nên khi gặp Tơ, một thôn nữ đến nhà mua dầu, Hàn đã nhìn rất kỹ. Tơ được Nam Cao cho hiện lên trước mắt Hàn theo đúng như dụng nhan, dáng điệu thưởng tả trong văn chương lãng mạn : “Thị có đôi mặt bỏ câu, cái miệng rất tươi và đôi má hay hay. Thị bên lên chào Hãn với một vẻ e là đáng yêu". Va Han sung sướng trước người đẹp cũng không suy nghĩ gì khác hơn những điều đã đọc thấy trong sách. Hắn tự bảo : "Cuốn tiểu thuyết của đời ta đã bắt đầu...". Thế là cuộc tình giữa chàng trai con nhà danh giá ở làng, học trên tỉnh về, với cô thôn nữ chất phác đã diễn ra đầy thơ mộng, êm ái như nó phải diễn ra trên trang sách đã đọc. Rồi lẽ ra họ đã thành vợ thành chống. Nhưng Hàn chưa đọc một cuốn tiểu thuyết nào kết thúc một cách giản dị theo kiểu ấy. Căn gì phải nghĩ đến hôn nhân? Hàn chỉ nghĩ đến tinh yêu. Mà tình yêu như thế này kẻ là đã đầy đủ làm". Thật đúng như cung cách của các nhân vật trong các tiểu thuyết của Khái Hưng Vì thế cuốn tiểu thuyết ái tình của Hàn cử thêm trang mãi. Và khi những tháng hè đã hết, nó đã đến chỗ Hàn xã-vơ-nia cho Tới một cái mùi xoa thơm lựng bằng lụa nôn, viên tím và thêu canh hoa con bướm với hai chữ HT gái với nhau. Ấy là một cái khăn tay Hàn đã đặt làm ngoài tỉnh, rưới vào mấy giọt nước hoa rồi gói vào một mảnh giấy bóng đem về tăng Tơ...".
Chưa phải đã hết nhai Nam Cao đẩy hai nhân vật này đi hết các bài bản của loại văn lãng mạn : Tơ bị gia đình ép lấy một anh chồng cọc cạch, Hàn cũng lấy phải một cô vợ xấu xí, thế là chàng uất ức tìm cách gặp lại nàng để cùng nhau trốn đi, sống cuộc đời tự do. Đến đây truyện rẽ ngoặt làm cho tất cả những gì tinh tử, lăng man nói trên đều đổ sụp trong lòng Hàn trước một thực tế hiển diện. Hắn trông thấy các cô gái tranh nhau ăn quả. Han nghệ thấy các cô khảo nhau chuyện Tơ bản chiếc khăn xú-vơ-nia và cái có mua được chiếc khăn đang định bản đi kiếm một hào lãi ăn bánh đúc. Truyện kết lại bằng cái ý nghĩ không còn lãng mạn chút nào của Hàn: "Bây giờ Hàn mới biết rằng, trước khi nghĩ đến việc đất nhưng cái hôn lên cái miệng hoa của người yêu, cũng nên nghĩ đến việc đổ cơm vào đẩy đã. Cái ý nghĩ có lẽ chẳng được thơ cho lắm, nhưng cuộc đời vốn không tha thứ cho những gì quá thơ
Văn chương lãng mạn qua sự nhại của Nam Cao trở nên mất giá. Nó chạy trốn sự thật vì sợ sự thật. Như nhân vật Hùng trong chuyện Đui mù, một truyện cũng có xu hướng nhại, đã đau khổ kêu lên “Tôi hối hận. Thủ rằng tôi cứ ở chúi xỏ thôn quê ấy để thẩm ca tung lòng chung thủy của Nga, thả rằng tôi cứ đui mù như anh lính nó lại được hoàn toàn sung sướng hơn là tìm đến sự thực để thất vọng vì sự thực". Ở truyện Cái mặt không chơi được Nam Cao đã nói thẳng ra cái khuynh hướng đối lập của mình với văn chương lãng mạn "Giá tôi yêu tối hơn chút nữa thì tôi phải tả Bình với một cái dáng hình thơ mộng hơn. Nhưng tôi yêu sự thật thà. Mà muốn thật thả thì phải nói là Bình không đẹp lắm".
Và để đối lại cái câu có hơi hướng Tự Lực văn đoàn đã dẫn trên là câu này rất đặc trưng cho hiện thực Nam Cao : "Cả bọn đi lùi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xâm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ" (Một đám cưới).
Nam Cao đã dứt khoát đi vào dòng văn hiện thực. Văn học hiện thực lúc này có hai mảng đề tài: nông dân ở thôn quê và thị dân ở thành thị Trên cả hai mảng này, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đã ghi lại được những thành công lớn. Nam Cao có cái gì của riêng mình để khác với họ? Ông đã thực hiện một sự lựa chọn là: theo dõi sự bản cùng hóa đời sống đã làm suy đồi hóa nhân tính và nhân cách của con người như thế nào. Từ đây sáng tác của ông có đặc điểm: sự vận động của một quá trình và chiều sầu của sự vận động đó. Ông muốn phân tích, giải thích hiện thực bằng vào cách lý giải hành động nhân vật trên phương diện tâm lý. Do xu hướng lựa chọn trên nên có thể nhận thấy trong truyện của Nam Cao:
1. Sự kiện của hiện thực được chú trọng không chỉ trên bình diện phản ánh mà còn là, và chủ yếu là, trên bình diện tác động của nó. đến nhân cách con người. Có nhà nghiên cứu đã phát hiện rất đúng rằng, cái đói trong truyện của Ngô Tất Tố chỉ là cái đói thôi, còn cái đói trong truyện của Nam Cao là vấn đề nhân cách. Nam Cao cổ hắn một truyền nói về chuyện này, nhan đề Tư cách mà. Anh cu
Lộ hiền lành con nhà tử tế mà hóa ra "mà hơn cả những thẳng mà chính tông". Vì sao vậy ? Nam Cao giải thích : "Hỡi ôi ! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lầm ; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trong ca; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh để tiện...". Nhân vật ở đây cũng lâm vào cảnh túng bẩn, nhưng túng thì túng thật, mà bụng dạ anh ta khá", ăn ở phân mình, được mọi người yêu mến. Cái nghèo có thể gây chết người vì đối. Nhưng cái nghèo còn có thể làm biến chất đạo đức và hủy hoại nhân cách con người, điều này cũng không kém phần nguy hại. Và đây chính là vấn đề Nam Cao tập trung chú ý.
2. Nhân vật luôn đứng giữa giáp ranh giữa thiện - ác, hiện - dữ luôn luôn ở thế giằng co, chống chọi giữa cái bên trong mình và cái nghịch cảnh ở bên ngoài; luôn luôn ở trạng thái hối hận, nuối tiếc và cô đơn. Đây là phần đóng góp mới mẻ của Nam Cao trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 - 1945 Chí Phèo lâu nay vẫn được nhìn thiên về khía cạnh con người bị lưu manh hóa bởi hoàn cảnh. Cái nhìn đó đúng nhưng chưa đủ. Một khía cạnh nữa cần chú ý sâu hơn ở Chí Phèo là khát vọng được làm người. Thị Nở cũng phải được xem xét trên bình diện này mới thấu hiểu hết con người xấu xi mà tốt bụng ấy. Chí Phèo và Thị Nở đã đánh thức bản tính người ở trong nhau giữa một khung cảnh tự nhiên hoang dại. Nhờ đó con quỷ dữ của làng Vũ Đại thoát trở thành con người hiền. Cố nhiên hai nhân vật này cũng như các nhân vật khác của Nam Cao, luôn ở cái thể chông chênh, mà cái nhìn hiện thực tỉnh táo của nhà văn dầu yêu thương nhân đạo nhưng không thể che chở, giúp đỡ gì được. Con người sụp đổ hay đứng dậy từ cái lần ranh ấy, từ trạng thái lưỡng phân ấy, là do chính nó quyết định. Hoàn cảnh, bên ngoài ở các truyện của Nam Cao là một hằng số phản diện và tiêu cực làm nền cho ông đặt các nhân vật lên để mặc chúng xoay xơ, đối phó.
Có một giới nhân vật riêng của Nam Cao giới trí thức tiểu tự sản, cụ thể là giới nhà văn và nhà giáo. Họ là những người có học, có đầu ôn, tâm hồn, có những hoài bảo lớn lao, những ước mơ bay bổng. Do đó họ cũng là những người hết sức đau khổ, dằn vặt khi chạm trán với cảnh đời xấu xa ti tiện. Họ bị giằng xé giữa cái sống và kiếm sống với cái làm nghệ thuật và phụng sự nghệ thuật. Cuộc đấu tranh để giữ nhân cách con người của họ là ở cho không thể thoát ly hiện thực vì miếng cơm manh áo nhưng cũng không thể để hiện thực cay nghiệt bóp chết bản chất nhân văn của mình, biến mình thành kẻ nhỏ nhen, để mạt Những Điền, Hộ. Hai và nhất là Thu đã cố gắng vùng vẫy trong cái vòng vây ngày càng thất lại của hoàn cảnh, họ vừa buộc phải chấp nhận và quy thuận lại vừa chống đối và tìm cách thoát ra. Nói day dứt đau buồn nhất của họ là cuộc đời sẽ mốc lên, sẽ ra đi, sẽ mòn, số mục ra" và rồi họ sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sáng". Cái nghèo đối với người dân quê có thể đưa đến sự mất nhân tinh. Đối với nhà giáo, nhà văn cái nghèo có nguy cơ phá hủy nhân cách. Người dân quá phân ứng lái bang hành động lưu manh hiêu linh. Nhà giáo nhà văn chống đỡ bằng cách giày và, đay nghiên mình. Và nhân cách nhiều khi đã méo mó, đã nhỏ lại đến thảm hại. Đó là nỗi buồn cắn xé, nỗi đau nhức từ mỗi trang truyện của Nam Cao
Chọn một hướng viết mới, phải có cách viết mới Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Ngô Tất Tố là những nhà văn quan sát và phản ánh hiện thực, Nam Cao là nhà văn suy ngầm và phân tích hiện thực Truyện của ông là không có truyện hoặc là những truyện rất bình thường ngỡ như không đang viết, không thể thành truyền được.
Nam Cao đã lấy sự phân tích tâm ly làm chính để dựng truyện. dựng nhân vật Du nhân vật là nông dân hay tri thức, kẻ lưu manh hay người lương thiện, ngòi bút nhà văn đều khơi gợi đến cái phản cảm phần nghỉ của chúng, bất chung phải tự bộc lộ. Chí Phèo bắt hu không hán nhờ lời tác giả kể lại những hành động phá phách của hắn, mà nhờ những ý nghĩ đứt nối chập chờn đến với hắn giữa những cơn say tình Qua đó người trong truyện và người ngoài truyện còn thấy hán là một con người. Cải cách Nam Cao làm ở đây là đứng ở ngôi thứ ba để miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Đoạn viết về tâm trạng Chí Phèo khi được Bá Kiến xử nhũn ở đầu truyện là một đoạn tiêu biểu cho lối viết tâm lý của Nam Cao Chị trong một trang tác giả cho thấy cả quá trình diễn biến tâm lý của Chi Phèo tâm lý của một người nhà quê và thể yếu của một con người đã điên khùng
Còn đối với các nhân vật trí thức thì cách phân tích tâm lý của Nam Cao có khác. Dấu vẫn có thể ở ngôi thứ ba nhưng dường như tác giả nhập vào nhân vật để nó tự suy nghĩ phân tích ở ngôi thư nhất. Loại nhân vật này là nơi thích hợp nhất để ngòi bút Nam Cao tự do đi vào mọi ngóc ngách tâm hồn, gợi lên những ý nghĩ, cảm xúc sâu xa. Mỗi nhân vật như đều là hóa thần của ông, đều thể hiện một khía cạnh, một mảng tâm trạng của người trí thức trước cuộc đời và nghệ thuật. Cái chất văn Nam Cao đọng lại ở những trang viết về trí thức chính là cái sự day dứt trăn trở bên trong mà ông đã diễn tả, đã làm toát lên được. Sau 1945, ở truyện Đôi mắt Nam Cao mới lại tìm được mình phần nào chính là ở thế mạnh tâm lý này, dẫu có cảm giác là bút lực của ông không đi hết cung độ của nó trong nhân vật Độ.
Cách viết tâm lý tạo cho Nam Cao một khả năng mới trong mối quan hệ tác giả - nhân vật. Các nhà văn trước chỉ biết viết ở ngôi thứ ba, chỉ giữ một thái độ đứng ngoài và đứng trên nhân vật, loại bỏ các khả năng quan hệ khác. Nam Cao đã đa thanh hóa giọng điệu tự sự, giọng tác giả và giọng nhân vật đan xen, hòa trộn vào nhau, tiếng nói tác giả và tiếng nói nhân vật phụ họa nhau, tranh cãi nhau. Đoạn mở đầu truyện Chỉ Phèo đặc sắc là vì vậy.
Nam Cao lớn và hiện đại chính là ở mảng hiện thực tâm lý này. Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam phát triển dưới dạng thu nhỏ và rút gọn của chủ nghĩa hiện thực thế giới cũng không ra ngoài quy luật chung. Trên bình diện thế giới, sau chủ nghĩa hiện thực của Banzic, L. Tônxtôi, có chủ nghĩa hiện thực của A Tsêkhop. Nam Cao, Người đến sau Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, cũng đã tìm cho mình một hướng đi có phần giống như Trêkhôp và hướng đi đó là hưởng phát triển mới của chủ nghĩa hiện thực trong văn học hiện đại Việt Nam. Đọc truyện Nam Cao không thấy có những hoàn cảnh điển hình với những xung đột điển hình kiểu như nông dân và địa chủ, tư sản và dân nghèo trong sáng tác của các nhà văn đi trước. Ông chỉ viết những cảnh đời bình thường của những con người bình thường với những ý nghĩ quẩn quanh, bức bối của họ, thế cũng đủ cho thấy một khoảng hiện thực có chiều sâu.
Nam Cao đã tìm đến một chủ nghĩa hiện thực mới khi thực hiện sự lựa chọn vào nghề của mình. Tôi tin sự lựa chọn này là có ý thức: một người quyết tâm theo nghề văn thế tất phải có cái nhìn sau trước để có quyết định đặt bước chân vào đâu để nó in dấu vết của mình trên đường văn.
(In trong Nghi tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992)
0 Nhận xét