NHÃN PHÓNG THANH_ HỒ XUÂN HƯƠNG

 

 

NHÃN PHÓNG THANH
 
Phiên âm :
 
Vì mang loa đại táp thương minh 
Đảo thủ tu giao nhân phóng thanh
Bạch thủy ma thành thiên nhẫn kiếm
Hàn đàm phi lạc nhất thiên tinh 
Quái hình vị đi tiêu tam giáp
Thân lực hệ dung tạc Ngũ Đình
Phảng phất vận đội đầu ám điểm
Cao tăng tổng hữu tọa đàm kinh
 
Dịch nghĩa :
 
MẮT TỎA SẮC XANH
 
Mẫu lam nhạt(1) mở mà nói trời xa với bể xa. 
Đến đây, tưởng như trong mất tỏa sắc xanh ra(2) 
Nước bạc (3) mài đá thành nghìn mũi gươm nhọn 
Giữa đầm vắng, hình như có một sao trời sa xuống.
Vách đá hình kỳ quái không để dùng làm bảng để danh kẻ đỗ đại khoa (5)
Nếu không sức thân thì sao tạc nổi tượng lực sĩ hùng dũng như vậy.(6)
 
Phảng phất mây xuống thấp, phía trên đã xẩm tối,
 
Chắc đã có vị cao tăng ngồi yên lặng tụng kinh.
 
Dịch thơ:
 
MẮT TỎA MÀU XANH
 
Bé xanh lớp loảng tận trời xa, 
Đây ngỡ màu xanh mắt tỏa ra
Nước bạc mài nên nghìn mũi kiếm, 
Đám im rơi xuống một sao sa. 
Quái hình chưa đễ để khoa bảng, 
Thân lực dầu đã tạc tượng mà. 
Phảng phất mây và đầu xám tới, 
Cao tăng đang tụng chọn chiến già.
 
 
Chú thích
 
(1) loa đại là một thứ bột màu làm xứ dùng để chế thứ mức sanh và lông này. Tác giả cố ý dùng chú loa ) đây vì nghĩa nó là ốc.
 
(2) Ý cầu này là : đến đây, nhìn đầu cũng thay màu, mình có cảm tưởng chính xuất mình phát màu xanh ra, chứ không phải vật ngoài có màu ấy.
 
 (3) Nước bạc: chỗ nước bể thường có sóng bạc chứ không phải chỗ riêng sóng. Sóng vỗ vào chân lên làm hõm chân, chứ không phải mài nhọn đá.
 
 (4) Sao sa : xấu về này tả cảnh ban ngày thì phải hiểu rằng một nước long lanh phản xạ tia sáng tiếng tốc lớn như có cho sa xuống, nếu nghĩ rằng nó là cảnh ban đêm thì có lẽ muốn nổi tới sắc lần tình lập lòe trên mặt nước.
 
(5) Tam giáp : trỏ bà bậc đậu thì đình thời xưa (Nhạc giúp có ba n Trung nguyên. Bảng nhân và Thám hoa; Nhị giáp tức là Hoàng giáp Tam giáp tức là Tiến sĩ.
 
(6) Ngũ Đinh - tên một lực sĩ trong thần thoại. Tương truyền đời xưa vua Tần hiến  do vua Thục một gái đẹp. Vua Thuc cai lực sĩ Ngô Định đi đến. Trên đường thay một con rắn lớn, bò vào hang đá. Ngô Định đuổi theo, họ đổ sập đè chết. Sau bị hôn ra tương đã không 10. Tác giả muộn hai việc liên quan đến tảng đá và tướng đã để ngụ ý đến những hình thù vì đại, kỳ dị, hàng trắng của các đảo lớn, nhất là khi trời gần tới.
 
Lời bình :
 
*Bài này bắt đầu bằng biểu diễn trực tiếp ấn tượng màu sắc xanh là của khung cảnh vịnh Hạ Long khi trời nắng Nhưng sau đó, thi sĩ đã đem cảm tưởng chuyển qua lý trí, ký ức hay tưởng tượng, để chuyển nên lời. Vì vậy mới có những hình ảnh : nước mài thành kiếm, sao sa tỏa sáng, thần nhân đẽo tượng, nhà sư tụng kinh. Cũng vì thế mà văn thành gở bó, nhất là khi phải thêm tìm chữ dễ đối chọi cho cân trong bon về giữa. Ví như dậy, nghĩ ra diễn lực sĩ Ngũ Đình hóa đá cũng khá tự nhiên. Nhưng phải tìm chữ để đối chọi cho cân, thì mới phát ra ý “Tam giáp” mà nghĩ tới những tấm bia Tiên sĩ. Lối thơ Đường luật thường bị tập quán nghiệp làm thêm mất vẻ hồn nhiên"
 
 
 
 
 

Đăng nhận xét

0 Nhận xét