CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG
I. TIỂU SỬ VÀ VĂN NGHIỆP
Về tiểu sử của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, cho đến nay người ta chưa tìm được một tài liệu gốc nào nên năm sinh và năm mất của bà hãy còn bỏ trống. Từ lâu các sách vở đều nói quê bà ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và bà là con cụ Hồ Phi Diễn là một vị đồ nghèo từng dạy học ở Hải Dương, Kinh Bắc. Nhưng theo một nghiên cứu mới đây, ông Đào Thái Tôn, bằng vào các tài liệu đáng tin cậy cho rằng bà là con cụ Hồ Sĩ Danh (1706–1783), đậu hương cống (cử nhân) năm 1732. Anh cùng cha với Hồ Xuân Hương là Hồ Sĩ Đổng đậu Đình nguyên đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (tức Hoàng giáp) làm quan đến Hành tham tụng, tước quận công cùng với Bùi Huy Bích đứng đầu triều của chúa Trịnh Sâm, Trịnh Khải.
Tuy Hồ Sĩ Danh không ra làm quan nhưng vì có con làm quan to nên ông được phong tặng chức Hàn lâm thừa chỉ và hàm Thái bảo. Còn mẹ của Hồ Xuân Hương, người họ Hà vốn là một cô gái xứ Bắc, chỉ làm hầu thiếp cho Hồ Sĩ Danh. Khi ông này mất đi, Hồ Xuân Hương còn quá nhỏ. Hai năm sau, Hồ Sĩ Đống cũng mất. Không còn nơi nương tựa, Hồ Xuân Hương được mẹ đưa ra đất Thăng Long. Từ đấy hai mẹ con cư ngụ tại phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây, Hà Nội bây giờ. Tại dây Hồ Xuân Hương được mẹ cho học hành. Sau đó, lại rời nhà về thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, nay là phố Lý Quốc Sư, Hà Nội Hồ Xuân Hương có một ngôi nhà riêng bên Hồ Tây đặt tên là Cổ Nguyệt đường (chữ Cổ ghép với chữ Nguyệt thành chữ Hồ).
Trước đây, nhiều sách báo nói bà sống ở thế kỷ 18 và sáng tác vào giai đoạn cuối thế kỷ này. Gần đây lại có người nói bà sống đầu thế kỷ 19. Hồ Xuân Hương là một phụ nữ thông minh, có tài lớn, mặc dù không được học hành mấy, tương truyền vô đường chồng con, lại rất éo le.
Hai lần lấy chồng là hai lần làm lẽ. Làm lễ Tri phủ Vĩnh Tường. Làm lẽ Tổng Cộc. Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm" (Xuân Diệu). Năm 1964, nhà nghiên cứu văn học Trần Thanh Mai phát hiện ra tập thơ Lưu hương ký có ghi tác giả là Hồ Xuân Hương người Nghệ An, sáng tác ở nhà Cổ Nguyệt đường. Theo tài liệu này, đặc biệt là bài tựa tập thơ Lưu hương ký, chúng ta có thể biết chắc rằng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán. Sau bao nỗi ê chề của những cuộc tình dang dở, Hồ Xuân Hương, trong một lần gặp Tôn Phong thị vào mùa xuân 1814, đã đưa cho ông tập Lưu hương ký, nhờ viết cho bài tựa. Có lẽ đây là cuộc gặp gỡ lần cuối của đôi bạn. Sau thời gian này, Hồ Xuân Hương đành mang thân đi làm lẽ viên Tham hiệp trấn Yên Quảng tên là Trần Phúc Hiển (khoảng từ 1815 đến 1818) Nhưng chẳng được bao lâu, viên Tham hiệp này bị dân châu Vạn Ninh tố cáo về tôi nhận hối lộ, bị Gia Long xử tử hình vào năm 1819.
Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Trần Phúc Hiển vốn con nhà giống dòi, cha là Trấn Phúc Nhân đã có công giúp chúa Nguyễn nhưng có lẽ đã bị tử trận. Trần Phúc Hiển được bổ chức Hàn lâm viên thị thư sau làm tri phủ Tam Đái thuộc trấn Sơn Tây (từ năm 1822 đổi tên thành phủ Vĩnh Tường) rồi đến năm 1813 nhận chức Tham hiệp trấn Yên Quảng. Theo Sở cuống Lê Dư trong Nữ lưu văn học sử thì sau khi Trấn Phúc Hiền bị tử hình vài năm, Hồ Xuân Hương cũng qua đời Nay chúng ta không có bằng chừng nào về năm mất của bà, chỉ biết bà mất khá lâu trước năm 1842 Vì năm này Tùng Thiện Vương Miên Thẩm hộ giả vua Thiệu Trị ra Bắc tiếp sứ nhà Thanh đi qua mô Hồ Xuân Hương và làm thơ có hai câu như sau:
"Mạc hướng Xuân Hương phản thương quá Tuyên đài do hạn tháo khiến tị"
Nghĩa là:
Chớ dẫm lên mỏ Xuân Hương nhé
Dưới suối vàng nàng còn ôm hận
rút nhằm tơ (duyên).
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam. Bên cạnh nội dung châm biếm sáu cay, thơ Hồ Xuân Hương còn thể hiện tiếng nói duyên dáng ý nhị dối với cuộc sống. Chính vì vậy hàng thế kỷ đã qua, cho đến đầu thế kỷ 20, những bài thơ của bà chỉ tồn tại trong ký ức của mọi người và lưu hành bằng con đường truyền mỏng như phương thức lưu hành của văn học dân gian. Thơ của bà độc đáo về nội dung cùng độc đáo cả về thủ pháp nghệ thuật đưa bà trở thành “ Bà chúa thơ Nôm".
Mãi đến năm 1956-1957, cụ Nguyễn Văn Tú, cử nhân Hán học xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Hà mới phát hiện được văn bản đầu tiên là tập thơ Lưu hương ký của bà, được ông Trần Thanh Mai công bố trên tạp chí Văn học số 11-1963 rồi số 10-1964. Vào những năm đầu của thập niên 70 lại nảy sinh vấn đề quan hệ họ hàng giữa Hồ Xuân Hương và Nguyễn Huệ Đến năm 1980 là phát hiện của Nguyễn Thị Thảo và Bach Hào (Tạp chí Văn học số 6-1950) nói về Tùng Thiên Vương Miên Thẩm (1819–1870) ra Bắc theo vua Thiệu Trị năm 1842 đã làm thơ khi qua mộ của nữ sĩ Xuân Hương và việc Trần Phúc Hiển, Tham hiệp Yên Quảng là chồng bà bị tội chết vào năm 1819...
Tác phẩm chính thức duy nhất được coi là của Hồ Xuân Hương là tập Lưu hương ký, trong đó có bài tựa của Tổn Phong thị viết năm 1814 như đã nói ở trên. Vẻ sự nghiệp thơ văn của Hồ Xuân Hương, Từ điển Văn học (tập I, NXB Khoa học xã hội, 1983) có viết :
"Hồ Xuân Hương nổi tiếng với những sáng tác thơ bằng chữ Nôm. Về số thơ Nôm lâu nay nói là của bà, tổng cộng chừng hơn 50 bài (AB.164;VN6.21); trong số đó chắc chắn có lần một số bài của người khác. Hồ Xuân Hương thường được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, trước hết là vì sáng tác của bà đã nêu bật được những vấn đề riêng tư, những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng, và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi của phụ nữ. Nhà thơ chưa nêu được tất cả những nỗi khổ của phụ nữ, mà thường chỉ nêu lên những nỗi khổ riêng, có tinh chất giới tính của họ : cảnh khổ của người phụ nữ đi làm lẽ, cảnh khổ của người phụ nữ vì nhẹ dạ, quá nể bạn tình nên phải bụng mang dạ chửa, hay cảnh khổ của người phụ nữ chết chồng... Bà rất thông cảm với những nỗi đau khổ ấy, nhưng không thở thai, rên rỉ, không muốn họ thêm bi quan, mà muốn động viên, an ủi họ dũng cảm chống lại cuộc sống, ngẩng cao đầu lên làm người. Bà ý thức được rất rõ giá trị và vai trò của người phụ nữ : họ đẹp ở đạo đức, đẹp ở con người, và về tài năng thì không kém gì đàn ông, chỉ vì xã hội phong kiến không chấp nhận nên họ không phát huy lên được.
Trong thơ Hồ Xuân Hương có một số bài viết về cảnh ngộ riêng từ. Đó là cảnh ngộ của một người phụ nữ giàu sức sống và hết sức tại hoa, nhưng cuộc đời đầy bất hạnh. Bà tha thiết muốn có một tình yêu đẹp nhưng không bao giờ đạt được. Phải làm lễ những người mà bà không thật thương yêu, cho nên thơ bà thường thể hiện một khao khát nhiều khi đến cháy bỏng về một tình yêu trai gái, tình yêu vợ chồng.
Thơ Hồ Xuân Hương lấy đề tài trong cuộc sống bình thường hàng ngày, nhưng thường là những đề tài có tinh chất úp mở hai nghĩa, một nghĩa đen phô ra, nói trực tiếp về đối tượng nhà thơ mô tả và một nghĩa ngắm, nói về chuyện trong buồng kin của vợ chồng.
Chính điều này làm cho một số người cho thơ bà là nhà nhớt. Nhưng thực ra thơ Hồ Xuân Hương không bao giờ khêu gợi những dục vọng kin đảo của con người. Thơ Hồ Xuân Hương một mặt thông cảm, bênh vực phụ nữ, để cao người phụ nữ, mặt khác lớn tiếng đã kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến, từ đám sĩ tử, nhà sự đến bọn quan lại, những thiên nhân quân từ và trên tất cả là bọn vua chúa. Bà vạch trên lối sống đạo đức giả, trái tự nhiên của chúng. Hồ Xuân Hương kế thừa truyền thống của truyện tiểu lâm dân gian, thường dùng cái tục làm phương tiện đả kích. Nghệ thuật đã kích của bà sắc bên “đánh một cái chết tươi".
Ngoài ra Hồ Xuân Hưng còn một số bài thơ viết về thiên nhiên rất độc đáo. Giống như con người Hồ Xuân Hương, thiên nhiên trong thơ bà cũng tràn đầy sức sống, âm thanh, màu sắc. Cảnh nào cũng động chủ không đứng yên, chết lặng, hiu hát, vắng vẻ. Hồ Xuân Hương sáng tác theo thể thơ Đường luật, nhưng được dân tộc hóa cao độ. Bà có những thành công đáng kể trong việc cố gắng đưa cuộc sống trần tục hàng ngày thì một thể thơ uốn đài các quý phái. Bà lợi dụng triệt để kết cấu chặt chẽ của bài thơ Đường luật, với những câu đối nhau để cấu tạo những mâu thuẫn có tính chất trào phúng trong những bài thơ chạm biếm, đả kích. Đặc biệt về phương điện ngón ngữ. Hồ Xuân Hương có những sáng tạo và thành công đáng kể trong việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày để sáng tác thơ, trong việc học tập ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Hồ Xuân Hương đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữ dân tộc và đa mai sắc ngôn ngữ dân tộc của thời đại mình.
Tập Lưu hương ký phát hiện gần đây gồm 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm.
"Đầu đề ghi là của Xuân Hương, người Nghệ An, sáng tác ở nhà Cổ Nguyệt đường (Hoàn Trung, Cổ Nguyệt đường. Xuân Hưng nữ sĩ tập). Trong tập thơ, tác giả viết về tình cảm và tâm sự của mình đối với những người bạn trai như các ông Tốn Phong thị, ông Hiệp trán Sơn Nam thương họ Trần, ông San Phủ, ông Chí Hiện và có cả một người cũ", ông Cán chánh học sĩ Nguyễn Hậu tức Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều. Tình cảm trong những bài thơ này thảm thiết, táo bạo, nghệ thuật nói chung già dặn, nhưng về phong cách thì có những chỗ không thật khớp với phong cách trong những bài thơ Nôm lâu nay được coi là của Hồ Xuân Hương."
Chung quanh thơ ca và các giai thoại về Hồ Xuân Hương, ta thấy có khá nhiều mâu thuẫn khó chấp nhận :
1. Bài Khóc ông phủ Vĩnh Tường, bài này không thể là của Hồ Xuân Hương khóc chồng. Bởi vì mãi đến năm Minh Minh thứ ba (1822) huyện Tam Đái mới được đổi tên thành phủ Vĩnh Tường. Lúc này Hồ Xuân Hương đã là vợ góa của ông Tham hiệp xứ Quảng Yên và đã luống tuổi (khoảng 50 tuổi) không thể nào lại lấy chồng ngay sau đó và lại khóc chóng” như thế.
2. Về những bài thơ trêu ghẹo” giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ (tức Chiêu Hổ) cũng vậy. Ông Siêu Hải trong bài “Về mối quan hệ giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ” dựa theo gia phả dòng họ mình cũng đã viết :
"Bà Đốc Trần (cụ tổ cách tôi sửu đời) sinh vào năm Canh Thân, 1740, thời vua Lê Hiến Tông (1740-1786). Gọi bà là Đốc Trần vì chồng bà là tri phủ Trường Khánh, sau là Đốc trấn Lạng Sơn khoảng từ 1784 1788, Thuê đó bà là một thương gia lớn ở phố Hàng Lam (nay là Hàng Ngang, Hà Nội) sau thêm một của hiệu ở phố Hàng Đường. Bà Đốc Trần thích dọc thơ Nôm nên đã là bạn thân của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, và thường gọi nữ sĩ bằng chị vì còn kém nữ sĩ hai ba tuổi. Như vậy tuổi năm sinh của Hồ Xuân Hương phải vào khoảng 1735 1739. Phạm Đình Hồ sinh năm 1767 mất năm 1839.
Hồ Xuân Hương có tặng bà Đốc Trấn cuốn Xuân Hương thi tập từ thuở đó. Gia phả ghi: “Theo cụ Nguyễn Gia Thái (1858-1935), người được đọc Xuân Hương thì tập do chính tay nữ sĩ chép tặng gia đình ta, thì không có những bài thơ tục tồn mà ngày nay người ta gán cho nữ sĩ. Hồ Xuân Hương hơn Phạm Đình Hổ gần ba chục tuổi, nên không thể có sự luyến ái, họa thơ giữa hai người đó được” Và trong đám cưới của cháu nội bà Đốc Trấn là Nguyễn Đình Vũ, lấy con gái Phạm Đình Hổ là cô Phạm Thị Huy, nữ sĩ Hồ Xuân Hương là người quen biết cả hai họ nên đã đứng lên làm chủ hôn, theo tục lệ thời đó. (Bà Đốc Trấn cũng là bạn thân với bà Hiến Sát, mẹ của Phạm Đình Hổ, hồi bà này còn sống ở Kê Chợ, nên Hồ Xuân Hương cũng quen biết bà mẹ này)."
3. Những bài thơ như Đánh đu (đã có bài thơ tương tự trong Hồng Đức quốc âm thi tập – thơ của Lê Thánh Tông) hay bài Khỏe Tổng Cóc... cũng đều có những chỗ đáng ngờ. như vậy.
Để kết thúc phần tiểu sử và văn nghiệp Hồ Xuân Hương, chúng tôi xin giới thiệu “lời tóm tắt và kết luận” của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đăng trong Tập san khoa học xã hội Paris tháng 12-1984, để độc giả tham khảo :
“Từ lúc có phong trào yêu chuộng thơ Nôm, trong sách bảo đã phổ biến nhiều thơ Hồ Xuân Hương mà không biết văn bản cũ có từ đâu. Vì vậy thân thế và văn chương của nữ sĩ chỉ theo khẩu truyền hay bịa đặt. Từ ngày phát hiện gia phủ họ Hồ và một số văn thơ Hán-Nôm của Nàng hay liên quan đến Nàng, thì ta được biết khá rõ những đoạn tình sử của Nàng và qua văn thơ chính xác, đoán được tính chất của Nàng Giống giống một đại tộc huyện Quỳnh Lưu ở Nghệ An. Vị kinh tế cha lưu lạc ở Thăng Long. Nàng tự học thành tài về thơ từ và sống một đời tự do độc lập, ngoài ràng buộc của nho phong. Tình cảm nhiều, Nàng có ái tình nhạy bén, thành thực đối với những kẻ văn nhân. Lại không e dè lấy văn chương bộc lộ đi tình, cho nên đối với bằng nhân, không khỏi bị phê bình lơ làng. Vì chọn tài, nên nhân duyên chậm trễ. Các văn nhân cao cấp bạn Năng thì đều có vợ rồi. Cuộc danh địu nhất thời chỉ làm đau lòng Nàng, khi đoạn tuyệt. Cuối dung, khi gần năm mươi tuổi, mới có dịp làm bà quan lớn, tuy là tiểu thiếp ở trấn Hải Đông. Nhưng không may, chưa được bao lâu, chồng đã bị khép vào tử tội. Chắc vì trường hợp cuối đời Nàng như vậy, mà mặt thật sự nghiệp và văn chương của Nàng bị mai một. Sau chỉ còn mặt đùa bạn của cô gái khi còn trẻ mà thôi."
Nay đến lúc, ta phải lấy lại phản thơ truyền tụng, bằng phép so sánh mà gạt những phần mới và quảng hay ngụy tạo, rồi hợp với phần nghiêm túc mới phát hiện để soạn một tập Xuân Hương thì thoại xứng đáng. Trước hết phải bỏ loại có chi tiết không hợp với thời gian hoặc không gian của Xuân Hương, vì như bài Khóc ông Phủ Vĩnh Tường và có lẽ Kinh Thánh Hóa, Hung Các Cơ, Chùa Hương Tích, Chợ trời
Thứ hai phải loại những bài có những lời rõ ràng là của - đàn ông, ví dụ bai Dạy trẻ con vì lời “Ai về nhấn nhủ Cô bay biết, bại Nhàn cư bởi về “Ngôi tại hiện mai vắt trúc kheo”, vân vân.
Cũng phải loại những bài, hoặc toàn phần, hoặc phân điện đã gán cho ai khác với những lẽ phỏng xác hơn, ví như bài Đánh đu là một bài đã thấy trong Hồng Đức thi tập chưa lại, bài Gẫm sự trấn duyên đã thấy Đặng Trần Côn gán cho Lê Thánh Tông.
Có những loại thơ hay truyền tụng và gai cho HÀNG ĐÚC nhân thì bà như Lê Thánh Tông, Bà Huyện Thanh Quan..v..v.., mà cũng được gán cho Xuân Hưng; of như những bài Tháng Mô, Bo nhìn, “Chân ngất chân máy một cột cờ", “Thanh thót tàu tiêu mấy giọt mưa", vân vân, thì khó thảm định hơn. Nếu lời văn cao giọng", cầu kỳ quả thì chắc không phải giọng thơ của Xuân Hương “dùng chữ ít mà đầy đủ như lời bình phẩm của Cư Đình Loại này nhanh thì để vào phân gán cho và ghi rõ là nó hôm nào (chi nêm lại đến khoảng năm 1926).
Nếu không liệt vào các loại thơ trên, mà chỉ có tính cách châm biếm, hài hước hoặc khiêu dục, thì cũng không thể vì vậy mà loại trừ, vì lúc tuổi trẻ, trong khi phải đương đầu với những thư sinh chòng ghẹo thử thách, Xuân Hương chắc đã làm loại thơ như vậy. Truyền tụng trong dân gian thường chỉ nhớ loại ấy mà thôi. Nhưng tôi đồng ý với Trần Thanh Mai rằng trong loại này chỉ giữ những bài có thi vị và lời khéo, không thô bỉ, ác nghiệt, mà cũng chỉ nên coi những tác phẩm loại này là loại đùa nghịch hồi tuổi trẻ; chính tác giả cũng không quan tâm muốn giữ, vì trong tập Lưu hương ký không hề có một loại này.
Hồ Xuân Hương thi tập xứng đáng với tài nghệ, tính tình, thân thể của lùi nữ độc đảo trong dĩ vãng của văn học ta sẽ gồm có phần diễu cợt làm lúc thiếu thời, phản ngâm vịnh nghiêm túc giáo điều như loại vịnh cảnh vịnh Hạ Long và có thể loại vịnh cảnh Đỏ Sơn và nhất là loại thơ trữ tình sâu sắc “Tuy đây về gió mây trăng móc, nhưng đều là tự đáy lòng mà phát ra", theo lời phẩm bình của một tình nhân Nàng là chàng Tổn Phong".
0 Nhận xét