NAM CAO
Nguyễn Đình Thị
Đầu tháng 11 năm 1951, nhà văn Nam Cao, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam đã hy sinh ở Liên khu Ba trong khi vượt vòng đai trắng, vào vùng địch làm thuê nông nghiệp. Anh chết mới ba mươi sáu tuổi.
Nam Cao là con một gia đình trung năng ở Hà Nam mùa đông bằng Bắc Bộ. Trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của anh luôn luôn hiện lên cái làng lam lũ ở ven sông, quanh năm gần như không có tiếng hát, nhà nọ cách xa nhà kia, rải rác trong những khu vườn "hẻo lánh tựa bãi tha ma Bắt đầu biết suy nghĩ. Nam Cao hiểu một cách sâu xa sự hả hiếp của bọn cưởng hảo. Anh đã thấy những “ông bà Kiến sai trái một lúc mười bảy người và đánh một người lời một mát, nhưng cảnh thuế má bóp hầu bóp cổ mỗi năm lại diễn ra, và những người dân cùng khổ càng ngày càng khổ mãi. Đang đi học, bị bệnh phù và đau tim, Nam Cao bỏ học, vào miền Nam Ở Sài Gòn, Nam Cao tham dự những cuộc biểu tình rầm rộ của phong trào bình dân, và như lời anh tự thuật trong cuốn Sống món
“Y kiếm ăn bằng rất nhiều nghề, kể cả những nghề mà những người tự xưng là trí thức không làm Y trà trộn với phu phen, với thợ thuyền Y mặc đồ bà ba đi trích thuốc thì ở nhà thương. Còn chút thì giờ thừa nào, y học rất chăm. Tạng người y không cho y cầm súng, cầm gươm Y sẽ cầm bút mà chiến đấu...
Mấy năm sau trở về quê, gia đình anh đã khánh kiệt, sống vật vả túng đói. Làng anh "vẫn như xưa, khổ hơn xưa. Vải Tây rẻ như bèo, nghề dệt cơ sở của làng chết hắn rồi Nam Cao ra Hà Nội làm nghề dạy học tư và cứ luôn luôn, cuộc đời túng thiếu, tù hãm, quần chặt lấy anh, không buông tha lúc nào.
Nam Cao bắt đầu bước thẳng vào nghề văn khoảng 1940, giữa lúc phát xít Nhật đã đặt chân lên Đông Dương, phát xít Pháp Petanh càng bóp nghẹt đất nước Việt Nam Ty kiểm duyệt Pháp, sở hiện binh Nhật nuôi những tờ báo tổng tiền, ca tung Petanh, Đớơu, "Cách mang quốc gia" Thiên hoàng, phi công Nhật, rượu xa-kê và gãi điểm Phù Tang Trong văn chương công khai, bọn thông trị phát xít chỉ còn cho tồn tại những tiểu thuyết lãng mạn cuối mùa, đưa ra những "chàng, nàng" trưởng giả chen với những "người hùng" trang trơn còn đồ hay những kẻ chán đời than ván, ca tụng quan lại, ước ao "trật tự, đạo lý, cái đẹp" phong kiến trở lại.
Nam Cao đã không chịu khuất với các chế độ ngạt thở ấy. Nhà văn mảnh khảnh thư sinh ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt, mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản kháng mảnh liệt. Anh thủ ghét những sách phủ phiếm, nói những chuyện rác rồi của những kẻ ăn no ngồi rồi, không biết làm gì cả. Anh nhìn rõ cái chế độ nó đẩy đọa và làm trụy lạc con người. Anh muốn phá tung ra, vạch cho mọi người thấy cải khô đang vây kin chung quanh. nó len lôi cả vào đến những chỗ sâu nhất, tốt đẹp nhất của tâm hồn. Anh nguyên rủa cái văn chương thi vị hóa cái khổ, của bọn nhà văn tư sản của mình xuống dân chúng"
Trong nền văn học hiện thực đang tìm đường và đang chiến đấu với các xu hướng phản động bấy giờ, thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao nổi bật lên, thật xuất sắc. Chí Phèo đã nói những cái khổ cùng cực của thôn quê dưới ách cường hào ở trước mắt, với quan lại và thực dân ở phía sau Anh cùng đỉnh liều mạng Chí Phèo giãy giua giữa những người nông dân bị bóc đến cái khổ không còn, cảng dễ bảo càng bị dút có xuống, dú cho đến không còn thở được cũng chưa thôi, suốt đời sống không ra con người, chưa biết đến đời thuở nào mới thoát được nanh vuốt của sự nghèo đói, ngu tối, nó hành hạ bóp rúm người ta lại, hoặc đây người ta đến Sở mộ phu, đồn diễn cao su và những tội ác cùng đường.
Cuối 1944, Nam Cao viết xong Sống mòn Tập tiểu thuyết ấy quăng đi, ném lại, không lọt qua được lưới kiểm duyệt để xuất bản, tuy rằng soi từng chữ không có chỗ nào bắt bẻ được Sống mòn tả cuộc sống thiểu não, quẩn quanh, nhỏ nhen của mấy người trí thức tiểu sư sản nghèo, một cuộc sống mù xâm cử "mốc lên, rỉ đi, mòn ra mục ra", không có lối thoát. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề văn mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tưởng bé tắc.
Văn Nam Cao, ngay trong những tác phẩm đầu, đã thực sắc sảo. Anh nhìn sâu vào sự thất một cách sắc cạnh, nhiều khi mùa mai Không ve vuốt ngay bản thân mình và giai cấp minh như một vài nhà văn tiểu tư sản tìm an ủi trong một triết lý hàng phục chế độ đương thời, anh tạo được những điển hình giai cấp thật sống và cảm động. Trong lúc văn lãng mạn tư sản đã xa rồi lời ăn tiếng nói của nhân dân, viết lai Tây như văn dịch, càng ngày càng trống rỗng, hình thức, anh đã tạo cho mình một lối văn mới, đậm đà bản sắc bình dân, nhưng không rơi vào chỗ thô tục. Và qua những lời phán uất, cũng đồng thời thấy biết bao thương yêu. Nam Cao yêu trìu mến cái làng khổ sở của anh, anh yêu những bến đổ hiền lãnh, những buổi sáng, buổi trưa của thôn quê Việt Nam. Mỗi khi nói đến những cái ngốc dại quanh quẩn của những người đau khổ quần quại. biết bao nhiêu xót xa độ lượng trong câu văn anh
Trong những tâm hồn chất phác, bị nghèo khổ làm cho mụ mị cần cỗi, ngay trong một con người u mê cục súc như Chí Phèo, Nam Cao tìm ra những rung động trong sáng của tình yêu, của niềm khát khao được sống cho ra người, những rung động ấy đột ngột hệ lên tửng lúc rồi lại bị đời sống vùi dập. Đó là chất thơ quý báu nhất, cảm động nhất trong các truyện tả thực của anh. Đó cũng là cái làm chúng ta càng cảm thấy thấm thía sự tàn bạo của chế độ cũ Nam Cao chưa hiểu sức mạnh bị cảm trái của những con người cùng khổ, nhưng chính những ánh ý thức đó làm cho truyện của anh không đen tối, tuyệt vọng, và vượt qua cả ý định của người viết mô hứa hẹn một sự thay đổi tương lai, như một ánh bình minh còn xa mỡ. Nhờ biết quý trọng đời sống làm lụng vất vả, nên Nam Cao biết nhìn rõ những chuyện nhỏ mọn hằng ngày trong cuộc đời đầu tắt mặt tối của bao nhiêu người chung quanh, và làm nổi rõ lên cho ta thấy tất cả những sự vô lý của một chế độ thối nát, trong những chuyện tầm thường lặng là nhất.
Nhưng cái xã hội ngột ngạt ấy đi tới đầu, ai sẽ pha tan nó, phá thế nào và phá rồi thì làm gì, những câu hỏi ấy Nam Cao chưa đặt được rõ và chưa trả lời được. Nam Cao nhìn thay người nhà quê nghèo khổ, ngu muội, bị đè nén muôn đời, anh chưa nhìn thấy người nông dân có thể vùng dậy đạp đó bọn thống trị. Anh nhìn sự thật phủ phàng bằng con mất của một người đang bị giày xéo, anh chưa nhìn được vào sự thật ấy bằng con mất một người lãnh đạo nó, thay đổi được nó. Những khát khao trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao hỏi đó như những tiếng kêu gào xé ruột, nhưng hy vọng còn leo lát làm sao | Mấy trăm trang uất ức và đau xót của Sống mòn, cuối cung mới hé ra một tia sáng nhỏ bé. Bom nổ trong phố Hà Nội, thành phố tàn cụ. Thư, vai chính trong truyện, cùng rơi cái trường tư của anh để về quê. Trên tàu hỏa chất chội, một người nhà quê đọc báo, nhiều tin chiến tranh
"Bao nhiêu người chết ! Bao nhiêu thành phố nát tan ! Cải thảm sông máu núi thấy thật là rùng rợn. Nhân loại lên cơn sốt rét, dang quan quai nhân nhỏ, rên la, từ minh lại cắn minh, từ minh lại xé mình, để đổi thay. Cái gì sẽ trôi ra ?... Lòng Thứ đột nhiên hé ra một tia sáng mong manh. Thứ lại thấy hy vọng một cách vụ vở. Sau cuộc chiến tranh này, có lẽ cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, cũng bình hơn, đẹp đẻ hơn. Nhưng y lại đỏ mặt ngay. Người ta chỉ hưởng được cái gì mình đáng hưởng mà thôi Ý đã làm gì chưa ?...".
Cách mạng đã chia tay đón lấy tia hy vọng thác mác ấy của Nam Cao, và chỉ rõ cho anh thấy tương lai. Chiến tranh trở nên ác liệt, xã hội Việt Nam lay chuyển. Đời sống càng cùng khốn đến kinh khủng. Những người chết đối năm là liệt ngoài hè phố. "Người chưa chết hẳn bị đẩy xuống hố cùng với những xác chết cho tiện chuyển chôn". Nạn đói lan tới be ban Nam Cao, đe dọa bản thân anh. Vợ anh viết thư cho anh : “Con Hưởng, thằng Thiên ăn cháo hơn một tháng nay rồi. Ba hôm nữa, cháo cũng không có ma ăn. Trông thấy chung nó cứ là dân, em đứt ruột.".
Nhưng giữa cảnh tượng như tuyệt vọng ấy. Nam Cao đã đọc "Để cương văn hóa" của Đảng Cộng sản Đông Dương và vào hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, học chương trình huấn luyện Việt Minh. Giữa cảnh chết chóc ghê gớm chưa từng thấy, anh trông rõ sự sống đang trào lên vũ bão. Và không phải một mình anh trông thấy. Cá nhân dân Việt Nam đã trông thấy ánh sáng. Cờ đỏ sao vàng mọc ra khắp nơi. Những con người khốn khổ, xưa nay ngậm hột thị, "hen quá là hen, ngu quá là ngu", mà bây giờ làm những chuyện Nam Cao không thể tưởng tượng được. Nam Cao đã bừng thấy sức mạnh của nhân dân, và trong đường sống của dân tộc đã tìm thấy đường sống của mình. Cuộc đấu tranh gay gắt và rộng lớn đây anh đi lên, mở dương cho anh. Lần đầu tiên, Nam Cao thấy đời sống có ý nghĩa và hiểu ra mình phải làm gì. Nhật - Pháp bắn nhau, anh và quê, không kịp khóc đến đứa con chết đói, anh mê mãi tổ chức Việt Minh rồi cướp chính quyền ở huyện và làm chủ tịch xã
Khởi nghĩa tháng Tám như một lưới cây không là đào xới mảnh đất Việt Nam đau thương, để gieo sự sống trở lại lên những luống đất đẫm máu và nước mắt. Bao nhiêu vấn đề đều phải đặt lại tất cả cùng một lúc Nam Bộ vừa đứng lên đã phải kháng chiến, chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Nhưng niềm vui đã tràn ngập trong lòng mấy chục triệu con người tái sinh
Nam Cao cũng như mọi anh chị em viết văn, sống những ngày ào ạt, sôi nổi, nhiều lúc quên cả công việc viết của mình. Không làm gì có thì giờ viết tiểu thuyết dài lúc này, người ta say sưa làm việc túi bụi. Đi theo Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp vào mặt trận miền Nam, lúc trở về, Nam Cao viết bài cho báo Tiên phong, câu đầu tiên của anh là một câu hớn hở: "Con đường vô Nam là con đường vui" Sau những năm đau xót tủi nhục, niềm vui sướng lớn của dân tộc được giải phóng đã chiếu sáng tâm hồn anh
Nam Cao đón lấy những đường lối chính trị của đoàn thể, của chính phủ như một kẻ bị giam mãi trong ngục tối, phòng ngực thở hít khí trời, khi được ra ngoài tự do. Qua bao nhiêu bước quần qua. mò mẫm, nên anh biết rõ giá trị của ý thức, của tư tưởng chính trị. nó mở mắt cho ta hiểu được sự việc hàng ngày, và giúp ta nắm lấy đời sống mà hướng về phía tiến bộ. Anh lại viết truyện làng anh, tìm cách nhìn rõ sự thể hiện của đường lối đại đoàn kết ngay trong những con người trước đây dân làng thủ ghét, ngày nay đang được cách mạng cảm hóa. Những truyện mới của anh còn khó có khi bị gò ép. Có bạn trách anh bắt những nhân vật mới của anh diễn thuyết quá nhiều. Mặc, anh nắm cố nghệ thuật của anh, bắt nó phục vụ cho cuộc chiến đấu sống chết của dân tộc. Nhân vật nổi nhiều cũng chưa sao miễn nói đúng đường lối.
Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, Nam Cao giúp việc tuyên truyền ở Hà Nam, phụ trách một tờ tin tức địa phương, làm ca dao tuyên truyền, phổ biến nhiệm vụ khang chiến. Anh trực tiếp tham gia tổ chức kháng chiến ở làng anh, một trong những làng đầu tiên bị quân giặc uy hiếp, rồi tràn ra đốt phá, càn quét. Mùa thu năm 47, anh lại từ biệt một lần nữa người vợ hiền và bà còn để lên Việt Bắc, theo sự điều động của đoàn thế. Trong trận giặc tấn công Việt Bắc, anh chịu trách nhiệm cùng điều khiển báo Cứu quốc Việt Bắc ở trong lòng địch, giữa Bắc Can bị chiếm đóng. Và ngay giữa những trong sùng giác, anh được vinh dự vào Đảng tiền phong, đứng cùng hàng ngủ với các người con yêu của cách mạng, của nhân dân. Trong tập nhật ký Ở rừng anh viết hỏi đó, người cán bộ quần chúng đã xuất hiện bên cạnh nhà văn
Anh gần gụi và thương yêu những con người chất phác, "Đã ăn củ hàng tháng để nhưởng gạo cho những người cách mạng, những người Mãn đói rách và ngu dốt cũng biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành". Giữa những người ấy, anh thấy an toàn, chắc chắn lạ lùng, mặc dầu vẫn nghe thấy tiếng súng rất gần. Hằng ngày viết báo, anh đọc cho một đồng chí giao thông người Thổ nghe, và sửa từng cầu từng chữ, để ai xem cũng có thể hiểu mà tiến lên giết giặc. Anh phụ trách lớp huấn luyện chính trị cho huyện, cho xã địa phương. Một đôi lúc sống hẻo lánh trong rừng thăm, những kỷ niệm đau xót của quãng đời cũ thoáng trở lại, ngậm ngùi. Nhưng sự phản khởi, tin tưởng lôi cuốn anh mạnh mẽ. Anh viết:
*..Cảng thấy phải khuân vác, phải vất vả, càng vui. Cách mạng đã đổi hạn óc mình Kháng chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia, còn thay đổi ngay chính thân thể minh Lúc này mình mới biết được sức mình. Thì ra mình khỏe chẳng kém gì ai. Thưởng thưởng người ta chưa bao giờ dùng đến tất cả sức lực của mình. Một phần khả năng của ta vẫn bỏ phí hoài, đến nỗi ta không biết rằng ta có nó".
Mấy năm kháng chiến, Nam Cao đã viết khá nhiều trên các báo, nhất là trên báo và tạp chí Cứu quốc. Trong những sách anh viết, phải kể cả những cuốn địa dư phổ thông. Lâu lâu, anh đưa in một truyện ngắn hoặc một bài bút ký. Đôi mắt, Bốn cây số cách một cản cứ dịch, Nụ cười v..v.., mỗi năm anh viết cảng sát chính trị hơn càng cố gắng thể hiện bằng sáng tác những chính sách lớn của kháng chiến. Ý thức trách nhiệm ngày càng rõ rệt trong những trang anh viết. Anh muốn sáng tác của anh phải có ích. Và dai dẳng trong mấy năm, anh viết đi viết lại cuốn tiểu thuyết mới về quê hương anh, mỗi lan viết lại bỏ dở vì thấy chưa dù tài liệu, mỗi lần bỏ dở lại tìm thu thập tài liệu thêm, tài liệu ghi chép, học tập, và tài liệu sống, lượm trong những dịp anh về qua vùng dịch, hoặc được gặp những người làng, nhân vật tiểu thuyết cũ của anh nay đã thành những phân tử cốt cán của cuộc chiến đấu ở quê anh.
Đầu năm 50, trở về chuyên công tác văn nghệ, anh làm việc một cách yên tâm, với thái độ dứt khoát và cương quyết thực hiện những đường lối văn nghệ của đoàn thể. Anh nhận mọi phần việc của anh, và luôn to hay nhỏ Soan một bản tin hay phụ trách một lớp huấn luyện cho các đồng chí giao thông trong cơ quan, hay viết một truyền ngắn, anh đều đem vào đấy hết khả năng và cố gắng của mình Anh qua đoàn nhạc, thúc giục nhạc sĩ, gọi để tài, tỏ ý kiến về những bản nhạc gửi đến Hội Anh tới trường Mỹ thuật nói chuyện với anh chi em học sinh về chính sách tạm vay và thuế nông nghiệp, để anh chị em vé và dân dò kỹ lưỡng hơn di công tác rồi cùng về kiếm điểm. Anh đi chiến dịch Cao Lang, làm báo tay cho đơn vị, phục vụ công tác chính trị trong cuộc chiến đấu. Ít khi anh phản năn về công tác. Không bao giờ anh nhân công tác mà không thủy chung làm.
Tạp Chuyện biên giới về chiến dịch Cao Lạng, anh sửa đi sửa lại, bỏ hàng chúc trong không tiếc để được móng, dẻ in, dễ phổ biến. Ngành kịch cần để cao, anh soạn kịch. Đi công tác thuế nông nghiệp, nhận thay ca đào có tác dụng lớn, anh làm ca dao. Hình thức nào tới được nhân dân đối với anh đều tốt cả Bất cứ dùng hình thức nào, sáng tác đối với anh trước hết cũng phải nhằm động viên, giáo dục được nhân dân. Trong tập Chuyện biên giới nói trên, anh chỉ chọn lấy những sự việc, những điển hình tích cực, có lợi cho người đọc sách của anh. Ban tuyên huấn Bộ tư lệnh Liên khu Việt Bắc đã trích truyện Nói thẳng trong tập ấy làm tài liệu học tập và kiếm thảo trong quân đội.
Khi nhận đi công tác thuế nông nghiệp Liên khu Ba, anh giãn dị lên đường Liên khu Ba, giặc đang lập vòng đai tráng. Nhưng anh nhân nhiệm vụ, cũng như trong mọi công tác anh văn nhận lấy các phần khó khăn Báo cáo gửi lên đều manh học tập thuế nông nghiệp - anh trình hay những khó khăn của văn nghệ Liên khu Ba anh đề nghị phương châm chống văn hóa đấu độc của giặc. Trước ngày vào vùng địch làm thuế nông nghiệp, anh viết thư về :
".. Tới một vùng chiến tranh nhân dân trước đây rất khá. Hiện nay bị giác quấy đảo dữ địch phục kích chặn đường luôn, nhưng cũng có hy vọng vào nhanh chóng được. Đi với anh em cán bộ, tôi không bờ ngờ lắm. Vì công việc của họ với tôi là một, không lúc nào phải đứng ngoài xem những việc minh không thể nào dự nên không bờ ngủ... Sau thời gian làm việc, nếu giới còn chứng sống và không bị bắt, tôi sẽ dự hội nghị tổng kết Viết được gì sẽ viết...
Những lời lo lắng trách nhiệm và đùa cợt với nguy hiểm ấy, là những lời cuối cùng của anh. Nam Cao đem lòng yêu sống đầm thầm mã đi vào một nơi cuộc sống treo trên sợi tóc, giác đang ra sức giết chóc, đốt phá Quân giặc giết Nam Cao nhưng không thể giết được tác phẩm của anh và lòng yêu nước, yêu nhân dân của anh Anh chết giản dị, dũng cảm, làm và vang cho truyền thống đấu tranh và phục vụ của những người văn nghệ Việt Nam.
Tháng 2-1952
(In trong Mấy vấn đề văn học, NXB Văn nghệ, H, 1956)
0 Nhận xét