Tập thơ “Một tiếng đờn”
Tập thơ xuất bản vào năm 1993 – thời kì đất nước đã hòa bình. Đây là những sáng tác trong khoảng hơn 10 năm từ 1978 – 1992. Trong tập thơ, bóng dáng của nhà thơ vẫn vô cùng quen thuộc trong vai trò nhắc nhở con người hướng vào những tình cảm lớn của dân tộc, những mục tiêu cao cả của cách mạng. Ông vẫn thủy chung với nguồn đề tài của đời sống cách mạng, của toàn đất nước.
Trước một hiện thực mới mẻ, đã có một tiếng nói mới, một giọng điệu mới nơi Tố Hữu, đó là những dòng tâm tư, trăn trở từ mạch cảm xúc trong thời hòa bình. Đây là thời kì sau chiến tranh máu lửa nên thơ ông đã xuất hiện những dòng thơ tươi xanh – mang đậm cảm hứng thế sự.
Đề tài trong thơ phong phú: ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, con người; công cuộc xây dựng đất nước đầy phức tạp; tình yêu và số phận con người… Âm hưởng thơ giai đoạn này cũng đã bớt vang xa (hướng ngoại) mà vọng sâu hơn (hướng nội), đôi khi tưởng chạm tới một điều gì riêng tư của tuổi cuối đời nhìn lại.
Ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bút pháp nội tâm, rất gần với thời kì Từ ấy. Bút pháp thơ Tố Hữu thời kì này không tung hoành, hào sảng mà trầm xuống trong chiêm nghiệm.
Em ơi nghe đó, trong đêm lạnh
Ðằm thắm bên em một tiếng đờn
Ngoài giọng anh hùng ca vốn có, thêm giọng trầm lắng, đôi khi xót xa:Mới bình minh đó, đã hoàng hôn
Ðang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn
Ðời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn!(Một tiếng đờn, 1991)
Những bài thơ tiêu biểu trong tập thơ là: “Một khúc ca”, “Ðêm cuối năm”, “Ðêm thu quan họ”, “Ðảng và thơ”, “Một tiếng đờn”, “Lạ chưa?”,“Xuân hành 92”, “Ta lại đi”, “Anh cùng em”.
Tập thơ “Ta với ta”
Cùng nguồn cảm hứng trong thời kì hòa bình, đổi mới của đất nước, vào tuổi 80, tác giả khẳng định hồn thơ vẫn rạo rực, thổn thức suy tư của mình trong tập thơ “Ta với ta”. Đây cũng là tập thơ cuối cùng của Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng gần chục năm cuối đời (1993 – 2002).
Giọng thơ chùng xuống, đầy suy tư, trăn trở về lẽ đời, lòng người, về sự hữu hạn của thời gian là nét nổi bật của thơ Tố Hữu ở tập thơ cuối cùng, trong tư cách con người cá nhân hơn là tư cách con người chiến sĩ cách mạng trước đây.
Là tập thơ cuối cùng của tác giả, ông đã thâu nhận và chứng kiến một thế kỉ có nhiều biến động. Tập thơ cuối cùng, nhà thơ đã tìm thấy những sợi dây ràng buộc vững chắc với đất nước, với nhân dân, bạn bè. Sự sôi nổi, trẻ trung trong thơ Tố Hữu đã được bớt đi và thay vào là những chiêm nghiệm và suy nghĩ sâu sắc trước cuộc đời. Tác giả đã ở vào thời điểm nhìn cuộc đời trong sự đúc kết về lẽ đời biến đổi, về chuyện nhân tình.Nhưng có một thực tế mà người đọc cần nhận thấy rõ đó là với hai tập thơ cuối, Tố Hữu đã không còn là “hiện tượng thơ” trong sự đồng vọng của độc giả như trước nữa.
Chính vì thế, từ một con người giữ vai trò người lĩnh xướng và chỉ huy dàn hợp ca cách mạng trước đây, Tố Hữu giờ chuyển sang tư thế của người hát “đơn ca” và có lúc là “độc ca”.
Trong hai tập thơ, yếu tố thi pháp văn học dân gian quen thuộc vẫn được thể hiện rất rõ nét, qua cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Nó được thể hiện qua những thể thơ dân tộc, ngôn ngữ thơ, thời gian và không gian cũng như các hình ảnh, biểu tượng quen thuộc của dân gian đã được vận dụng một cách linh hoạt. Tuy có sự thay đổi thi pháp trong hai tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” so với các tập thơ trước nhưng dấu ấn thi pháp văn học dân gian vẫn là đặc điểm nổi bật nhất trong hai tập thơ cuối cùng của Tố Hữu và để lại cho đời những giá trị vĩnh hằng.Nếu như năm tập thơ đầu gắn chặt với quá trình hoạt động cách mạng của ông, thì đến hai tập thơ cuối cùng là “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” là sự nếm trải vui, buồn của cá nhân với tư cách là một con người
Trong năm tập thơ đầu, ông luôn là người lĩnh xướng của dòng thơ ca cách mạng với tư cách là một thi sĩ. Còn với tư cách người chiến sĩ cách mạng, ông lại là người chỉ huy của dàn hợp xướng thơ ca ấy.
Với cả hai tư cách, tiếng nói của ông trên chính trường cũng như trên thi trường đều có ảnh hưởng lớn và mang tính quyết định đối với dòng thơ ca cách mạng trong diễn trình thơ ca Việt Nam hiện đại.
Nhưng với hai tập “Một tiếng đờn” và “Ta với ta”, vào những năm tháng cuối đời, Tố Hữu đã kịp chuyển sang tư thế của người hát đơn ca - hát một mình với “Một tiếng đờn”.
Thậm chí sau này ông còn là người hát “độc ca”, tự đối diện với chính mình và chỉ hát cho mình nghe “Ta với ta”. Giọng thơ chùng xuống, đầy suy tư, trăn trở về lẽ đời, lòng người, về sự hữu hạn của thời gian là nét nổi bật của thơ Tố Hữu ở hai tập thơ cuối cùng, trong tư cách con người cá nhân hơn là tư cách người chiến sĩ cách mạng trước đây. Điều đáng trân trọng đó là trong hai tập thơ này, Tố Hữu vẫn thể hiện tinh thần kiên định niềm tin vào lý tưởng và con đường cách mạng của dân tộc.
2.Cảm hứng về thế sự, nhân sinh
a. Trong thơ Tố Hữu chứa đựng rất nhiều triết lí sống và những lời khuyên để con người có được cuộc sống tốt đẹp hơn, xây dựng con người nhân văn, nhân ái hơn.
Và một lần nữa, Tố Hữu đã có dịp bộc bạch những tâm tình, cảm nhận của mình về lẽ đời qua hai tập thơ cuối. Sự trẻ trung, sôi nổi theo năm tháng qua đi, nhưng những gì còn lại trong thơ Tố Hữu chính là những chiêm nghiệm và suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời trong giai đoạn này.
Nhà thơ nhìn nhận, đúc kết những kinh nghiệm sống, về nhân tình, thế thái. Nhưng có một điều nhất quán ở thơ ông là niềm tin vào lẽ sống của con đường đi mà suốt cuộc đời tác giả đã gắn bó, vào chữ nhân cũng như đức tin ở con người. Trong hai tập thơ, nhà thơ đã thể hiện những tâm tình mang dấu ấn của thời gian nhưng vẫn đậm nét trẻ trung.
Trong thơ Tố Hữu giai đoạn này cái tôi thế sự được thể hiện khá rõ. Đó là cái tôi hướng về cuộc sống hiện tại với những ngỡ ngàng, trăn trở, băn khoăn, đau đớn, lo lắng trước những đổi thay của đời, của thời đại. Có lẽ chính bởi sự thay đổi quá nhanh đó mà thơ Tố Hữu giai đoạn này mang cái tôi cô đơn, đầy tâm trạng. Cuộc đời trong thơ Tố Hữu những năm tháng đã qua là những con người ân tình, ân nghĩa, thủy chung, là cuộc sống lầm than, bần hàn, nghèo đói nhưng có sự sẻ chia, gắn bó giữa chiến tranh. Trở về với thời bình, thời kì dựng xây và phát triển kinh tế thì việc thay đổi trong cách ứng xử hàng ngày, trong mối quan hệ vốn thân tình ngày xưa, trong việc làm ăn buôn bán với những điều quá mới mẻ … khiến ông cảm thấy lạc lõng giữa cuộc đời. Thời kì này, thơ Tố Hữu dường như là niềm hoài cổ, mang đầy tâm trạng. Thường trực trong thơ ông là hoài niệm về những ngày đã cũ.
Trong thơ Tố Hữu, ông nhắc đến hình ảnh:Nhiều đêm trằn trọc… Tiếng còi xaGọi chuyến tàu vào, gọi chuyến raLại tưởng mình trên toa máy mớiSáng ngày chạy tới một sân ga.(Tiếng còi xa, 1995)Từ cuộc đời chung, rộng lớn, Tố Hữu trở về với cuộc đời riêng, nhỏ bé, ông nhìn thấu những góc khuất nơi xã hội, và nhà thơ trăn trở, xót xa:Xóm thợ trên đó lều tre ổ chuộtLàng quê nghèo xơ xác cháo cầm hơiNhững nghịch cảnh giàu nghèo trong xã hội cũng khiến cho nhà thơ thấy day dứt, xót xa:Ôi thị trường cũng chiến trường thắng lợiCòn chỗ chăng, cho tình thương lẽ phải(Du xuân, 1999)
Có một Tố Hữu khác, đau đớn, phẫn nộ trước bao nhiêu cảnh khổ đau, bất công, nghịch cảnh. Chính vì thế, đã có lúc ông cảm thấy đau đớn,xót xa khi thấy hiện thực cuộc sống không còn sự thẳng thắn, nghĩa tình màcòn ẩn chứa những sự đổi thay trong lòng người, khiến con người trở nên tha hóa.
Ôi! Đời vẫn còn rơi bao nước mắ
Bao bất công còn đau thắt lòng ta
Sao lắm kẻ gian tà giấu mặt
Vàng đầy kho, ngạo nghễ xa hoa!(Cho xuân hạnh phúc đến muôn đời, 1997)
Nghịch lí trong cuộc đời, sự phân biệt giàu – nghèo, gian – chính cũng là điều Tố Hữu suy tư. Cuộc sống còn đầy bất công mà người chứng kiến nước mắt không thể không tuôn rơi, lòng người không thể không quặn thắt, người nghèo thì cái khó đeo bám, kẻ gian tà thì cứ việc xa hoa.Và phải là Tố Hữu, một bản lĩnh chính trị kiên cường, một nhà thơ 46với biết trải nghiệm qua những thăng trầm của cách mạng, mới có thể viết:
Sao lắm kẻ xưng danh đồng chí
Nhạt lương tâm, lạnh ngắt đồng tiền
Gian tà dám bán rao đạo lý
Tham nhũng leo thang bậc cửa quyền(Chào xuân 99)
Không ngại phiền chi, Tố Hữu viết về những thói hư, tật xấu trong xã hội đương thời, những kẻ lợi dụng chức quyền, những kẻ mang danh xưng “đồng chí” – con người của cách mạng nhưng lương tâm đã đổi khác, tình nghĩa đã đánh đổi bởi đồng tiền.
Viết như vậy, Tố Hữu đang trực tiếp vạch mặt những kẻ đã lợi dụng danh nghĩa để trục lợi cho mình. Sự thẳng thắn này có lẽ cũng chỉ có ông mới thể hiện trực tiếp qua những vần thơ của mình.
Đặc biệt trong tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” có những kỉ niệm của cá nhân tác giả. Từ tấm lòng nhân hậu và tràn ngập tình yêu thương, Tố Hữu đã thể hiện những ước mong gần gũi, đầy tình người. Đ
Được làm cây lúa vàng thơm hạt
Làm tiếng chim thanh hót sớm chiều
Làm đường gạch lát đường thôn mát
Tri kỷ, tri âm, chẳng đợi nhiều.(Tiếng còi xa, 1995)
Quy luật cuộc sống được đúc kết trong những vần thơ, tuy giản dị nhưng lấp lánh niềm tin yêu cuộc đời. Từ hoa kết trái, từ cay đắng mới có ngày mai thành công rạng rỡ, sáng ngời. Và con người cũng như cuộc sống, phải trải qua bão giông mới nhìn thấy mặt trời sáng tươi. Những hình ảnh thơ gần gũi mà tiêu biểu cho những suy ngẫm trong đời thơ Tố Hữu.
Quả nào không kết nụ từ hoa?
Có chua đắng mới ra đường mật ngọt
Cuộc sống đâu chỉ hương thơm chim hót?
Bão giông qua, trời đất lại tươi màu.(Ta lại đi, 1992)
Triết lí sống tình nghĩa của người dân Việt Nam được thể hiện trong thơ Tố Hữu qua rất nhiều sáng tác. Và có lẽ chính bởi thế mà nó đã trở thành niềm tin, hi vọng và thành một vòng quay giúp ông thêm yêu cuộc đời.
A! Cuộc sống thật là đáng sống
Đời yêu tôi.
Tôi lại yêu đời
Tất cả cùng tôi.
Tôi với muôn người
Chỉ là một.
Nên cũng là vô số!(Một nhành xuân, 1980)
Triết lí sống là cho cũng theo Tố Hữu đến khi ông đã ngoài 80, trongnhững lời thơ, ông vẫn truyền lại cho thế hệ trẻ nhiệt huyết của con ngườiđã từng vào sinh ra tử, cống hiến cho cách mạng như một lẽ tự nhiên:
Hãy đi tới.
Tự cánh mình bay thẳng
Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!
Sống, cho mình.
Và sống cũng là cho.(Chào năm 2000!)
Từ những nỗi lo chung của dân tộc thời kì kháng chiến, giải phóngđất nước, trở về với nỗi âu lo thường ngày, Tố Hữu không quên nhắc nhởcon người những lẽ sống chân thành, tình nghĩa, yêu thương.
Thơ ông vẫntạo nên sự đồng cảm trong lòng người bởi nó chứa đựng nhiều trăn trở ưutư về con người trong thời kì mới.
Kết luận
Cả hai tập thơ “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” đều biểu hiện sự thấu hiểu tình đời, lẽ đời của một tâm hồn thơ đẹp,sống đúng đạo lí của dân tộc Việt Nam và nó sẽ là yếu tố quan trọng khiếncho thơ ông mang đậm dấu ấn của thi pháp văn học dân gian.
0 Nhận xét